Dẫn nhập

Đối với các tâm hồn đơn sơ, vị thánh là con người của các thị kiến, của các lời tiên tri và của các phép lạ; những điều này là những đặc sủng, không thiết yếu đối với sự thánh thiện, do Thiên Chúa ban trong Giáo hội ngay từ những buổi đầu để chứng tỏ tính cách thần linh của Giáo hội, và như là những phương thế ngoại thường để đánh thức hoặc để duy trì sống động trong tâm trí con người ý thức về những sự thần linh.

Vị thánh là con người thuộc trọn về Thiên Chúa; một con người mà theo lời diễn tả của thánh Phaolô,1 sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; một con người tìm nơi Thiên Chúa nguyên lý và cùng đích của mọi suy tư, mọi tình cảm, mọi hoạt động của mình.

Tất cả những ai được tái sinh do bí tích thanh tẩy đều đã nhận được trong bản thân mình những yếu tố ân sủng của một sự sống vượt trên sự sống tự nhiên do lòng nhân hậu vô lường của Thiên Chúa rộng ban; nhưng trong thực hành không có nhiều tín hữu đang khi đáp trả một cách hoàn hảo sự thúc đẩy thần linh, đạt tới mức độ đời sống thiêng liêng khả dĩ áp dụng vào tất cả chiều sâu rộng lời thánh Phaolô: Không phải tôi sống nữa, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi.2

Bởi thế vị thánh trình bày cho chúng ta đúng như người sống một cách đầy tròn sự sống siêu nhiên được ban cho một tạo vật nhân linh; do đó, một cách thường hằng họ sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa: sống trên mặt đất nhưng là công dân của nước trời, tâm hồn luôn hướng tới nơi mà mình có của cải đích thực.3 Tinh thần cầu nguyện hệ tại chính ở chỗ này, được hiểu như một sự nâng cao, một đà lực yêu mến của linh hồn hướng về Thiên Chúa,4 chẳng có gì có thể tách rời đối tượng tuyệt đối này khỏi tình yêu của người ấy: ngay bây giờ đã sống cuộc sống mai sau, trong đó hưởng kiến Thiên Chúa cách trực tiếp, trong yêu mến và trong vĩnh cửu.

Ý thức điều này, cần phải can đảm thú nhận rằng, ngày nay chúng ta thấy hầu như khắp nơi, không luôn luôn Truyện các thánh chứa đựng thực sự cuộc đời các thánh. Chắc chắn rằng các vị thánh đều cho thấy một hành động được định vị trong khung cảnh các biến cố của những người cùng thời; trong chuỗi các sự kiện và những trào lưu tư tưởng, người tín hữu nhận sẽ ra bàn tay của Chúa Quan Phòng gởi đến đúng lúc và đúng nơi những vị anh hùng có khả năng nâng đỡ nhân loại bằng các sứ mạng tôn giáo và xã hội.

Dưới nhãn quan này lối viết hạnh các thánh hiện đại đã được giải thoát khỏi những định kiến cố hữu khi nhìn vào các vị thánh như là những vị từ trên các vì sao rớt xuống mặt đất, xa lạ với cuộc sống, nếu như không nói là bị ám ảnh, chỉ thích giới hạn trong thần bí; đó là do bị hạn hẹp vì sự thiếu hiểu biết về thần bí và do những ý định tán dương gán cho những hiện tượng một tính chất cao siêu.

Đúng là cần phải ca ngợi các đồ đệ của phương pháp lịch sử, nếu như trong một số bối cảnh nào đó hình ảnh của các vị thánh có thể gây nên sự ác cảm nơi một số người. Nhưng cũng không thể chối được rằng tính chất cá nhân của các thánh có nguy cơ bị biến mất, bởi vì khi lấy khỏi các vị cái hào quang thì cũng phải cho chúng ta thấy các vị ấy thực sự như thế nào.

Cần phải phân biệt hai khía cạnh mà không tách rời chúng. Tại sao khi nghiên cứu về các thánh lại tách rời khỏi sự thánh thiện? Khi nói về sự thánh thiện tức là nói về một thực tại mà khoa học thực nghiệm, dù là lịch sử học hay tâm lý học, chỉ khảo sát được chút ít, và đối với người không bao giờ để tâm nghiên cứu những sự kiện thuộc về bình diện cao hơn nơi mà nhân linh gặp gỡ thần linh tới độ kết hợp, thì điều này không thể.

Đây là lý do tại sao thật sai lầm quan niệm của các tác giả cho rằng khi viết về vị thánh thì không đáng phải nói tới sự kết hợp với Thiên Chúa hoặc nếu nói tới thì phải nói trong một cách thức dửng dưng. Và nếu như thế chúng ta sẽ có một cây các thánh được trần thế hóa.

Trở lại một nhận xét khác. Chúng ta đã nghe và đọc nhiều rằng Don Bosco là một vị thánh hiện đại. Xem ra đó là một khẳng định thận trọng và phải hiểu trong ý nghĩa chứa đựng; nếu không nó sẽ phát sinh ra những nghi vấn, rằng giống như mọi sự khác mang tính con người, sự thánh thiện cũng cần phải được hiện đại hóa theo thời gian.

Chúng ta không theo chủ trương cho rằng có hai loại thánh thiện, loại thứ nhất tốt cho một thời và loại thứ hai được tạo ra cho thời chúng ta! Hoạt động của ân sủng thần linh đã làm nên các vị thánh không thay đổi theo thời gian, theo những hoạt động đa dạng của con người vốn luôn ở trong tình trạng biến đổi để thích ứng với những thay đổi của thời đại và hoàn cảnh; cũng không phải rằng đang khi thể thức thay đổi, thì sự cộng tác của con người với hoạt động thánh hóa của Thiên Chúa ngày hôm nay thì khác với ngày hôm qua.

Tình yêu hoàn hảo của Thiên Chúa, yếu tố cốt thiết của sự thánh thiện, thì giống như mặt trời, ngay từ ban đầu khi được tạo dựng đã luôn làm quả đất sinh động khi chiếu sáng và sưởi ấm nó. Điều này không có ý nói rằng không thể chấp nhận những cách giải thích khác, miễn là đừng nói một cách độc chiều rằng vị thánh chỉ là con người của thời ngài và bởi đó thực hiện một sứ mệnh trong một thời điểm lịch sử, theo một chủ trương ngẫu nhiên cho rằng nếu trong thời đại khác thì hoá ra lỗi thời.

Dẫu rằng nhìn nhận căn tính của nguyên lý và của năng lực gợi hứng cũng như mục tiêu tối thượng của mọi công việc thánh thiện, chính phương pháp này lại chẳng có gì mới mẻ khi đề cao khẩu hiệu: thời nào sự thánh thiện nấy.

Đặc biệt có một sự hiểu lầm thô thiển khi nói rằng Don Bosco vị thánh hiện đại. Trong thời buổi lao động cuồng nhiệt hiện nay khi nói như thế ngừơi ta nghĩ đến một bầu khí muốn tự hào về một vị thánh của hành động, như thể rằng Giáo hội, từ thời thánh Phaolô cho tới hôm nay chưa bao giờ có những vị thánh hoạt động và như thể chỉ có ở thời chúng ta mới có một vị thánh hành động đi đôi với cầu nguyện.

Không thể gọi là thánh thiện nếu không có đời nội tâm, và không thể nói tới đời nội tâm mà không nói tới tinh thần cầu nguyện. Đây chính là cái linh đạo chân chính, hôm qua, hôm nay và mãi mãi: hoạt động và cầu nguyện thấm nhập vào nhau, không tách rời khỏi nhau, như thấy trong ngày Ngũ tuần.

Một người hiểu rõ về thánh Phaolô đã diễn tả cái cốt lõi trong hoạt động tông đồ của ngài,5 diễn tả này chúng ta thấy áp dụng thật đúng cho Don Bosco: “Với một sự tài khéo tuyệt vời vị Tông đồ đã kết hợp chiều kích thần bí thật cao siêu với chiều kích tu đức thực tiễn; đang khi mắt ngài xuyên vào cõi trời thì chân ngài không hề rời khỏi cõi đất. Khi ngài nói mình chịu đóng đinh cho thế gian và sống chính cuộc sống của Đức Kitô, ngài biết cách nói sao cho lôi cuốn con cái yêu dấu của mình bằng những lời lẽ của niềm vui và ân sủng. Ngài ban ra những chỉ thị rất nhỏ nhặt về khăn choàng đầu của phụ nữ, về trật tự của cộng đoàn, về bổn phận làm việc, về việc chăm sóc cho bao tử yếu. Thế nên linh đạo của ngài cống hiến cho những tâm hồn khiêm nhường một của ăn luôn luôn có hương vị, và cho những tâm hồn được ưu tuyển một kho tàng không vơi cạn những suy niệm thâm sâu”.

Ngay từ buổi đầu của Kitô giáo tới thời trung cổ, chúng ta tìm thấy người ta viết về thánh Bonaventura nhận xét này mà duờng như cũng viết về Don Bosco: “Thời buổi chiến đấu đòi hỏi những con người có một lòng tốt trổi vượt, đứng bên trên mọi phía đối kháng, có khả năng đem lại bình an cho các tâm hồn: những con người có một quan điểm rõ ràng, biết rõ cái mình muốn và thẳng tiến theo mục tiêu của mình; đó là những con người cầu nguyện để bảo đảm bình an trong tâm hồn mình và đạt được sự soi sáng và sức mạnh từ trên cao”.6

Đó chính là linh đạo của các thánh, luôn cổ kính và cũng luôn mới mẻ, không bị thay đổi do dòng thời gian cũng như tập tục.7

Có thể xảy ra là những người làm tông đồ và các Kitô hữu khi dấn thân vào các khoa học thánh, bị thúc đẩy tìm lý lẽ cho các sự việc thiêng liêng, qúa dễ dàng họ  bị ảo tưởng cho mình là chính cái mình nói; nhưng cái nói và cái làm qủa là khác nhau: người ta có thể diễn từ rất hay về đời sống thiêng liêng mà không sống một cách thiêng liêng.

Các linh mục hiến thân cho tác vụ thánh, trong những trang sau đây, nhờ vào Don Bosco, sẽ tìm thấy những chỉ dẫn và khích lệ thực hiện tổng hợp giữa làm và giảng dạy,8 nghĩa là việc thực hành đi trước, cùng đi và theo sau giáo huấn. Thánh Bernardo nói rằng cần có chính bình chứa chứ không chỉ là những máng chuyển.9

Các giáo dân, giữa những lo lắng của cuộc sống nếu không đánh mất những quan tâm về tinh thần, sẽ tìm thấy không ít điều bổ ích nơi gương mẫu một người lao động không mệt mỏi, giữa biết bao trách nhiệm đã có được nghệ thuật biến đổi lao công của đôi tay mình thành lời cầu nguyện, trở thành một khả năng tự nhiên luôn cầu nguyện và đừng bao giờ chán nản.10 Không cần phải nói tới các tu sĩ, bởi vì họ có trí hiểu về điều thiêng liêng, với một ít mà chúng ta trình bày, họ sẽ trực giác được rất nhiều điều mà mắt chúng ta chưa thấy.

Tinh thần cầu nguyện là bầu khí quyển của người Kitô hữu. Chúa nói rằng Ta sẽ đổ xuống trên nhà David và trên cư dân Giêrusalem thần trí ân sủng và cầu nguyện, và chúng sẽ hướng về Ta.11 Sự tuôn đổ thần trí này đã bắt đầu trong ngày lễ Ngũ tuần, đã trải dài, trải dài và sẽ trải dài muôn đời trong cung lòng Giáo hội, tạo nên trong Giáo hội bầu khí nơi đó các tín hữu hít thở. Các thánh đã hít thở cái không khí ấy đầy phổi của mình.

Được làm cho sống và nên mạnh mẽ trong đời sống nội tâm12 bởi sự tuôn đổ này, các việc làm của xác thịt được tẩy trừ như trong thư gởi tín hữu Galata và thay vào đó là hoa trái của Thánh Thần, bác ái, vui mừng, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, tiết độ, trung tín, khiêm tốn, tiết chế, thanh khiết.13 Đây là điều mà thánh tông đồ gọi là sống bởi Thánh Thần và bước đi trong Thánh Thần; khi nói điều này thánh nhân muốn nói tới sự đổ đầy bởi sự tròn đầy của Thiên Chúa. Chúng ta có thể hiểu rõ điều này cùng với tất cả các thánh, đặc biệt ở đây với Don Bosco và theo cách thức của ngài.

Về thứ tự viết tác phẩm như sau: Nhờ Thánh Thần sự sống của người công chính được so sánh với ánh sáng từ lúc bắt đầu tỏa chiếu, và tiếp tục cho tới lúc chính ngọ. con cái thật của ánh sáng,14 các thánh là vì sao giữa thế gian,15 tiếp tục cho tới khi thành toàn, và khi lên trên trời họ phản chiếu vinh quang Thiên Chúa.16

Chúng ta sẽ đi theo cuộc đời Don Bosco từ buổi bình minh tới lúc xế chiều, từ bước đi trong Giáo hội chiến đấu tới Giáo hội khải hoàn. Sau cùng chúng ta sẽ bàn tới những ân huệ siêu nhiên. Dù rằng những ân huệ ấy không phải là những phương tiện cần thiết để đạt tới sự kết hợp với Thiên Chúa, nhưng đã tỏa sáng trong con người ngài và bộc lộ con người ngài.

Cõi lòng của chúng ta tràn đầy niềm vui, khi nghĩ tới cha chúng ta, từ chốn vinh quang, sẽ chiếu sáng bước đường lữ hành của chúng ta với giáo huấn và gương sáng của ngài, đồng thời cũng là đấng chuyển cầu cho chúng ta để chúng ta có thể đạt tới quê hương thiên quốc.


Chú thích

1 Gal 2, 19.

2 Gal 2, 20.

3 Phil 3, 20.

4 Theo nghĩa chung, lời cầu nguyện là ascensus mentis in Deum (thánh Gioan Damasceno, De fide orth., III, 24) và là mentis ad Deum afectuosa intentio (thánh Agustino, Ser. IX, 2).

5 Prat. The!ologie de St. Paul, vol. II, 1. VI, 3, 5. Beauchesne Paris.

6 Lemmens, Vita di S. Bonaventura, p. XIV. Soc. “Vita e Pensiero”, Milano 1921.

7 Cfr. D. Eusebio Vismara, Don Bosco, il santo dei tempi moderni, in virt e glorie di S. G. Bosco, discorsi raccolti da D.G. Favoni, Torino, S.E.I., 1934, p. 328. Là một sự trình bày hệ thống, nhưng đầy đủ và chặt chẽ về đề tài.

8 Act 1, 1.

9 In Cant., Ser. XVIII, 3: Si sapis, concham te exhibebis et non canalem.

10 Luc 18, 1.

11 Zacc 12, 10.

12 Eph 3, 16.

13 Gal 5, 19-25

14 Gioan 12, 36; Luc 16, 8.

15 Phil 2, 15.

16 2 Cor 3, 18.

Tiền đềChương I. Trong gia đình