Chương VIII. Trong những lúc gian truân

Tất cả những ai đẹp lòng Thiên Chúa, đều đã trải qua những nỗi gian truân mà vẫn giữ được lòng trung thành.51 Nhìn từ xa, ai không nghĩ rằng Don Bosco đi giữa con đường trải hoa hồng? Thế mà cuộc đời ngài thực ra được gieo giữa những giai nhọn. Gai nhọn trong gia đình: sự nghèo khổ và chống đối đã cản trở ngài, buộc ngài phải chịu những vất vả khổ nhục và làm cho con đường theo ơn gọi linh mục đầy cay đắng. Gai nhọn khi lập Nguyện xá: thập gía trên vai như từ mọi phía, từ những cá nhân, các cha xứ, từ thẩm quyền thành phố, chính trị và trường học. Gai nhọn còn tệ hơn là từ phía các người tin lành: Với tờ báo Letture Cattoliche mỗi tháng, ngài như sờ thấy một vết thương nhức nhối, đụng tới một cơn giận dữ. Gai nhọn vì thiếu các phương tiện: biết bao thanh thiếu niên trong tay cùng với bao công cuộc thế nhưng không có những phương tiện để có thể tồn tại. Gai nhọn từ chính bản thân: những hy sinh để thích ứng với những triệu chứng đau nhức. Gian truân và gai nhọn do quyền bính giáo phận: sự hiểu lầm, sự chống đối và khác biệt về mục đích.

Việc thành lập Tu hội Salêdiêng qủa là đường Calvario, đến nỗi về những gì đã làm Don Bosco nói: “Công việc đã xong. Nhưng biết bao gian nan! Biết bao khó khăn! Nếu mà bay giờ cha phải bắt đầu, không biết cha có đủ can đảm để bắt tay vào việc không”. Một cuộc tử đạo kéo dài các đau đớn thể lý. Giữ cho mình đứng vững và với sự bình tĩnh để đạt tới mục đích chỉ có thể đối với ai, như lời thánh Phaolo dạy: hướng mắt về Đức Giêsu, Đấng là tác giả và Đấng hoàn thành đức tin, trong niềm hy vọng, mang lấy thập giá không mở miệng nguyền rủa.52 Chính đây là phần chiến thắng dành cho những người có đời sống nội tâm.

Giờ đây chúng ta hãy quan sát gần hơn những giờ phút kịch tính trong cuộc đời Don Bosco. Thánh Agustino sau khi nói rằng Vịnh gia, giữa những tai họa hứng chịu vì những kẻ gian ác gây ra, đã tìm ẩn thân trong cầu nguyện, cầu nguyện thành khẩn, khuyên chúng ta rằng nếu chúng ta gặp cảnh gian truân tương tự hãy biết cầu nguyện như Vịnh gia. Đó là bài học quan trọng mà các thánh, mà sau Đức Kitô là những bậc thầy chân chính dạy chúng ta trong nghệ thuật chịu đau khổ.

Al Huysmans người viết một bài ngắn nhưng xúc tích về Don Bosco, vì nhu cầu phải rút ngắn, đã dành không đầy một trang về ngày Chúa nhật lễ lá 1846.53 Một ngày quả là khổ nạn đối với Don Bosco! Bị xua đuổi nhiều lần từ mọi góc trong thành phố, nhưng lại được theo đuổi bởi đoàn chiên ngày càng đông, buộc phải tổ chức trong một cánh đồng ngay cả những gì thông thường người ta làm trong nhà thờ.

Nhưng ngay cả ở đây cũng đến lúc bị giải tán. Không có một sự gia hạn nào; không có một tia hy vọng; mọi sự tìm kiếm đều vô ích. Sự nghi ngờ đối với Don Bosco khiến cho nơi nào Don Bosco tới thì người ta đều đóng cửa lại. Trái tim ngài tan nát. Sau khi giải tội cho đám trẻ tinh nghịch ở bên bờ thưở ruộng, ngài dẫn chúng tới đền thánh Đức Mẹ, cách đó chừng hai cây số. Bao nhiêu tâm tình trong các bài hát, kinh nguyện và ruớc lễ! Thánh lễ đã trợ lực cho ngài; nhưng nỗi đắng cay đâm vào lòng ngài khi thấy lòng đạo đức của con cái đang bao quanh ngài, vì rồi chúng sẽ phải tản mác sau biết bao hy sinh để tụ họp và nối kết chúng lại. Trong bài nói chuyện ngắn ngài ví chúng như những con chim, mà tổ của chúng bị ném xuống đất; thế là bọn trẻ cầu nguyện, cầu nguyện rất nhiều với Đức Me, có lẽ Mẹ đã chuẩn bị để cho chúng một nơi tốt hơn và an toàn hơn.

Buổi chiều hôm đó sinh hoạt giải trí vẫn nhộn nhịp trong cánh đồng; nhưng bên trong Don Bosco đang khóc. Vào lúc hoàng hôn, vẫn chẳng có gì xảy ra; nỗ lực sau cùng để ra khỏi tình thế đã thất bại. Lúc này bản tính tự nhiên bộc phát mạnh mẽ những đòi hỏi của nó, Don Bosco cảm thấy không cầm được tiếng khóc. Quá đau khổ, người ta thấy ngài lánh mặt đi một mình, tràn trong nước mắt, cầu nguyện lớn tiếng. Các em lớn, vốn đã hiểu các thói quen của ngài, cảm thấy không an tâm nhìn thấy ngài trong đau khổ như thế nên đã theo ngài. Chúng nghe thấy lời cầu nguyện đau khổ và trông cậy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa của con, xin thánh ý Chúa được thực hiện, nhưng xin đừng để cho đám trẻ đáng thương này thiếu một nơi nương thân”. Và lời cầu nguyện đã không uổng công; hiệu quả hầu như ngay lập tức. Ngày Chúa nhật sau đó chúng đã có thể vui vẻ mừng lễ Phục Sinh.

Một trong những thiếu niên can đảm ở bên cạnh người cha của chúng trong giờ đau thương đó và đã để lại trong lịch sử của Nguyện xá một cái tên rất thân thương, Giuseppe Brosio, cánh tay mặt của Don Bosco trong hầu hết mọi lúc. Ngòi bút của em đã để lại cho chúng ta tường thuật sau đây.

Một ngày Chúa nhật, khi các hoạt động đã chấm dứt, người ta không thấy Don Bosco trong sân chơi cùng với các thiếu niên. Một sự vắng mặt khác thường như thế không thể nào không bị nhận ra. Cậu Brosio dễ thương kia liền đi tìm ngài, cho tới khi gặp ngài đang ở một mình trong một căn phòng, rất buồn và như đang khóc. Vì Don Bosco vốn thương cậu bé nên trước những câu hỏi nài nỉ của cậu, đã trả lời rằng một em học sinh của Nguyện xá đã xỉ nhục ngài cách nặng nề. Ngài nói thêm: - Đối với cha, điều ấy không quan trọng; nhưng cha đau khổ vì con người vô ơn đó đang hư mất. Brosio cảm thấy trái tim bị thương tổn nên không còn bình tĩnh, cậu nổi giận chạy phóng ra ngoài chạy đi tìm để cho kẻ hỗn láo kia một bài học nhớ đời. Don Bosco đổi nét mặt, vội vàng đuổi theo giữ cậu lại, bình thản nói với cậu: - Con muốn trừng phạt kẻ đã xúc phạm Don Bosco, con có lý, con hãy trả thù kẻ đó cùng với cha, con có đồng ý không? – Có, cậu đáp lại với tất cả sự mạnh mẽ của một đứa thiếu niên đang điên vì cơn giận của mình. Don Bosco dịu dàng cầm lấy tay cậu, dẫn vào nhà thờ, bảo cậu cầu nguyện bên cạnh mình, và cậu ở lại đó cầu nguyện lâu giờ. Bị buộc phải cầu nguyện cho người bạn, chỉ một lát sau cậu đổi từ giận dữ sang yêu mến. Ra khỏi nhà thờ, Don Bosco trong tình cha con nói với cậu: - Con yêu mến, con thấy không, sự trả thù của người Kitô hữu đó là tha thứ và cầu nguyện cho kẻ xúc phạm.

Có biết bao cơ hội, ngay cả đau thương, đã cống hiến cho người của Thiên Chúa cơ hội để thực hành sự cảnh tỉnh thánh thiện. Từ năm 1848 tới 1854 là những năm có nhiều cuộc mưu sát đe doạ mạng sống ngài. Một lần ngài bị nhắm bắn đang khi dạy giáo lý, viên đạn trúng vào tay áo phía bên trái, giữa cánh tay và ngực. Hai kẻ giết mướn, núp trong bóng tối gần công trường Castello để hãm hại ngài nhưng bị dân chúng phát giác.

Hai lần, ngài được gọi tới giường của hai kẻ giả vờ hấp hối, ngài đã phá đổ cái âm mưu giết hại ngài khi đổ ly rượu độc để ám hại ngài. Ba lần ngài thoát khỏi lưỡi dao khi một kẻ chém mướn tấn công ngài. Khi bị đe dọa trong phòng bằng một khẩu súng, ngài chỉ thoát được nhờ mấy thiếu niên vì nghi ngờ mà canh chừng cho ngài. Trên đường tại Moncalieri có lẽ ngài đã bị một cây gậy vào sọ nếu mà sự quan phòng đã không để cho tên hung thủ trượt chân té xuống một rãnh nước gần đó.

Bốn lần nguy hiểm tính mạng khác mà ngài thoát được là nhờ con chó bí ẩn. Những kẻ ra lệnh là những kẻ gian ác thuộc tầng lớp chính trị, thường nấp sau bóng tối và sai phái những bàn tay giết người để tấn công ngài, vì Don Bosco không chịu giải giới trong cuộc chiến của ngài, vì ngài cứ một mực trung thành với Giáo Hội và với Đức thánh cha, nhất là bằng phương tiện là tờ báo Letture Cattoliche. Biết bao nguy hiểm mà người ta gây nên cho ngài đã không làm ngài mất bình tĩnh trong những công việc hằng ngày, đến nỗi trong nhà ít ai biết được những biến động xảy ra cho ngài. Tinh thần nào đã tác động trên ngài trong vùng biến loạn ấy, chính ngài biết.

Năm 1853, có hai người lịch sự kia, sau khi được tiếp tón rất tử tế, trở mặt thô bạo đe dọa bắt ngài phải ngừng in tờ tạp chí, ngài trả lời cách rõ ràng và thẳng thắn: “Khi làm linh mục, tôi đã hiến thân mình vì lợi ích của Giáo hội Công giáo và phần rỗi các linh hồn, nhất là cho giới trẻ… Các ông không biết gì về các linh mục công giáo, nếu không thì đã không giở trò đe dọa này. Hãy biết rằng các linh mục của Giáo hội Công giáo, bao lâu còn sống, họ làm việc tự nguyện cho Thiên Chúa; và nếu khi chu toàn nhiệm vụ của mình họ phải chịu thiệt thòi, họ coi cái chết như một sự may mắn và sự vinh quang cao cả”.

Chúng ta cũng cần biết rõ rằng ngài không bao giờ dùng bạo lực để chống lại bạo lực, bởi vì “sức mạnh của người linh mục hệ tại ở sự kiên nhẫn và trong sự tha thứ”. Thực vậy sau những cuộc gặp gỡ như vậy nếu có ai tìm Don Bosco, sẽ gặp thấy ngài đang cám ơn Chúa và Đức Mẹ, cầu nguyện cho những kẻ tìm hại mình, đặt mình trước mặt Chúa để làm điều lành trả lại cho sự dữ, và tìm lại sự bình thản cho tâm hồn bằng việc gặp gỡ Thiên Chúa.

Những cuộc tấn công có vũ khí cũng đi với những cuộc tấn công tầm thường nhưng lại khá nhiều: đó là của các người cung cấp và của các chủ nợ. Để cho công cuộc đạo giáo và bác ái của mình hoạt động, Don Bosco thường rơi vào trong tình cảnh rất túng quẫn; tuy nhiên chúng không cản trở được ngài rút ra từ trong đức tin sâu thẳm của mình của ăn nuôi dưỡng sự vui tươi và bình an. Ngài nói: “Thiên Chúa là người cha tốt lành, Ngài dự liệu cho chim trời không khí và chắc chắn ngài không quên dự liệu cho chúng ta”. Liên quan đến chính mình và sứ mệnh của ngài, Don Bosco lập luận: “Trong những công cuộc này, tôi chỉ là một dụng cụ khiêm tốn; chính Thiên Chúa là tác giả. Thuộc về tác giả, chứ không thuộc về dụng cụ, việc dự liệu các phương tiện để tiến hành và đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa sẽ làm vaò lúc và theo cách thức Ngài thấy tốt nhất; về phần tôi chỉ cần tỏ ra dễ dạy và khiêm tốn trong tay Ngài”.

Thói quen nhìn mọi sự theo một tầm cao đã khiến ngài một ngày kia trong bài nói chuyện buổi tối nói: “Các con hãy cầu nguyện và ai có thể, hãy rước lễ theo ý của cha nhé. Cha cũng cầu nguyện cùng với các con nữa! ngay cả nhiều hơn nữa. Cha đang trong hoàn cảnh rất khó khăn! Cha đang cần một ơn. Cha sẽ nói cho các con đó là ơn gì”. Vài ngày sau ngài kể lại và bảo rằng có một ông nhà giàu kia đã tới và cho ngài một số tiền vừa đủ, và thêm rằng: “Đức Trinh Nữ rất thánh, hôm nay, chính hôm nay, các con thấy đó, đã chuyển cầu cho chúng ta một tiếng “được” rất thuận lợi. Chúng ta hãy hết lòng cám ơn Mẹ. Lúc này hãy tiếp tục cầu nguyện, và Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta. Nhưng nếu ngôi nhà này roi vào trong tội, thì khốn cho chúng ta! Chúa sẽ không giúp chúng ta nữa. Hãy lưu tâm đẩy xa những cạm bẫy của ma qủi và năng lãnh các bí tích”.

Có những mảnh nhỏ do các thiếu niên nội trú của Nguyện xá viết lại nguyên văn vào mỗi buổi tối, hiện đang được các văn khố của chúng ta lư giữ rất cẩn thận, bởi vì đó là tiếng dội trung thành nhất lời nói của người cha và là một tài liệu quí gía vì cho biết những gì ngài đã xác quyết vào năm 1876: “Chúng ta không có những phương tiện của con người; nhưng chúng ta luôn hướng lên cao”. Nếu điều này không đủ chứng minh, thì bằng chứng tốt nhất cho thấy một con người liên lỉ đặt mình trong Thiên Chúa và luôn có Thiên Chúa trong lòng mình, đó là luôn lấy lại được nghị lực mới,54 khiến ngài luôn có được sự vững vàng vốn là sự tham dự mật thiết vào sự bất biến dịch của thần linh. Hồng y Cagliero làm chứng: “Trong suốt ba mươi năm, tôi chưa bao giờ thấy ngài tỏ vẻ mất can đảm, khó chịu và bất an vì lo lắng nuôi các thiếu niên”.

Thêm vào sự hung tợn của bạo lực xảy đến và của những lo lắng hằng ngày, còn có những sự kiện đau thương khác giáng trên những tình cảm thân thương của ngài. Trường hợp xảy ra cho ngài trong lễ kỷ niệm thánh Phêrô cũng đủ cho mọi người thấy rõ.

Một trong các lòng yêu mến lớn của Don Bosco luôn luôn là Đức Thánh Cha. Trong thời buổi có bầu khí thù nghịch với chức giáo hoàng, Don Bosco dù chịu bao thử thách, tỏ ra một lòng nhiệt thành hoạt động vì Đức giáo hoàng Roma, điều mà cả hai phía đối kháng đều nhận ra. Nhìn cảnh vị Đại diện Chúa Kitô bị tấn công, lòng yêu mến của Don Bosco bị tổn thương. Thế nhưng Thiên Chúa đã để cho ngài không miễn khỏi nỗi gian truân.

Trong cuộc kỷ niệm trọng thể toàn thế giới, ngài cho in trong tờ Letture Cattoliche số báo về vị Thủ lãnh của các Tông đồ, số báo được phấn khởi đón nhận. Tới lúc, cái không có trở thành có, cuốn sách của ngài được một người nào đó trao cho Thánh Bộ Kiểm Duyệt. Một cú sét nổ trên nền trời bình yên! Rồi ngài nhận được từ văn phòng thánh bộ bản tường trình của một vị Cố vấn: một sự cảnh cáo nghiêm khắc, nặng nề vào ngay tác giả, như thể ngài đã muốn phủ nhận thẩm quyền giáo hoàng bằng những học thuyết sai lầm. Don Bosco đã cầu nguyện nhiều, ngài suy nghĩ lâu và rồi viết một lá thư kính cẩn trả lời.

Đêm trước khi gởi lá thư đi Roma, ngài gọi một trong con cái ngài lại để viết lại một bản; điều này cho phép chúng ta biết được sự việc, nếu không có lẽ nó đã bị chôn vùi trong bóng tối. Trong cái yên lặng của ban đêm, người sao chép xúc động nghe thấy từ phòng bên cạnh tiếng thở và những tiếng nức nở đứt quãng của Don Bosco: những tiếng rên của lời nguyện thống thiết. Đến nửa đêm, ngài nhẹ nhàng mở cửa và bước ra nhìn công việc ra sao: “Con thấy chứ?”. Ngài hỏi. “Có, con thấy Don Bosco bị đối xử ra sao”. Lúc này người cha nhìn vào thánh gía, thốt lên: “Ôi Chúa Giêsu, ngài thấy đó, con đã viết cuốn sách này với mục đích tốt. Ôi, linh hồn con buồn đến chết! … Xin ý Cha được thực hiện! Con không biết làm sao qua khỏi đêm nay. Ôi Giêsu của con, xin đến cứu con!” Don Bosco đã qua đêm đó thế nào chỉ mình Thiên Chúa mới biết được; chúng ta chỉ biết được là vào lúc 5 giờ, thư ký của ngài khi tới bàn làm việc để hoàn tất bản sao chép, đã thấy Don Bosco hoàn toàn bình thản đi xuống để giải tội và dâng thánh lễ; sau đó trông vẻ ngài như một người hoàn toàn khác, với nét sống động vui tươi hiện trên khuôn mặt.

Lời biện hộ được gởi đi. Chính Đức Pio IX đã ngăn chặn việc tố tụng. Trong lúc đó, ngài xem xét lại công việc, sửa lại hai chỗ trong một xuất bản mới. Sóng gió đã qua, nhưng Don Bosco đã lãnh một đòn qúa đau, Lời cầu nguyện khiêm tốn đã giúp ngài lấy được tinh thần tỉnh táo giữa lúc đau buồn, giờ đây biến thành lời tạ ơn Đức Mẹ, vì bầu trời đã trở lại yên tĩnh.

Nhưng đâu là cơn ác mộng kéo dài bốn tháng so với áp lực kéo dài liên tục trong mười năm? Hãy bỏ qua một bên những lời cay đắng, những bút chiến không phải mục tiêu của cuốn sách này. Lịch sử sẽ làm công việc của nó; hơn nữa nó đang làm rồi. Tính anh hùng của sự thánh thiện của Don Bosco bộc lộ trong thời kỳ mười năm này. Đối với chúng ta, có lẽ sẽ là một thiếu sót quan trọng nếu khi bàn về sự kết hợp của Don Bosco với Thiên Chúa mà bỏ qua trong yên lặng nỗi gian truân ngài đã trải qua vốn được coi là nhậy cảm và nhiều người biết. Ở đây, một đàng chúng ta có Don Bosco là người tìm mọi cách để san bằng mọi bất đồng, đàng khác có những người dường như nghiên cứu để tìm cách gia tăng những xung khắc và làm cho sự việc nên đắng cay.

 Mười năm cay đắng qủa qúa dài và có lẽ khiến cho cả Giob cũng phải cảm thấy mất kiên nhẫn. Thế mà người cha tốt bụng luôn luôn tỏ ra hiền lành mỗi khi buộc phải nói về sự gian truân cay đắng đã trải qua, ngài chỉ có một nỗi buồn muốn được diễn tả, điều mà ngài đã viết cho hồng y Nina: “Con đã không xin gì khác, và con sẽ không xin gì khác trừ ra sự bình an và sự bình tĩnh, để có thể thực hiện tác vụ thánh để cứu rỗi các linh hồn đang gặp biết bao nguy hiểm”. Đối với Don Bosco ngài không tìm gì khác ngoài các linh hồn; còn lại, tiếng tăm và lợi lộc không có ý nghĩa gì. Khi chất đầy những cay đắng ngài đã làm gì? Chìm trong kinh nguyện, như lời thánh vịnh, chính là sự nâng đỡ của người công chính bị bách hại.55 Kiên nhẫn trong gian truân và chuyên cần cầu nguyện, theo như thánh Phaolô, chính là thực hành của các vị thánh.56

Trong án phong thánh, chúng ta thấy có ba giòng diễn tả thời kỳ gian truân này như “lửa đã thử vàng nhân đức ngài khỏi mọi cặn bã thế tục, làm cho ngài trổi vượt trong đức tin và trong sự kết hợp với Thiên Chúa”. Liên quan đến những người đã gây ra các thử thách này, Don Rua trình bày: “Tôi biết không dễ gì tha thứ cho họ, thế mà ngài đã cầu nguyện và bảo chúng tôi cầu nguyện cho họ”.

Có một điều mà Don Bosco không khi nào cầu xin, đó là xin khỏi bệnh, dù rằng ngài để mặc người khác cầu nguyện cho ngài như một thực hành bác ái. Ngài chấp nhận những đau đớn thể lý một cách hoàn hảo như là ý Chúa do lòng yêu mến Chúa và như việc đền tội; nhưng cần phải tìm hiểu ngài đã chịu đựng tới mức độ nào! Những bệnh tật đã theo Don Bosco hầu như suốt đời không phải ít mà cũng không phải nhẹ. Không phải là qúa khi nói về ngài rằng xác thịt đã không bao giờ cho ngài được dễ chịu.57 Triệu chứng ho ra máu ngay từ lúc bắt đầu đời linh mục và tái hiện nhiều lần định kỳ. Từ năm 1843, ngài bị đau sốt nhức hai mắt và sau này mắt bên phải hư hoàn toàn. Từ năm 1846 bị chứng viêm hai chân và hai bàn chân, chứng này ngày càng nặng theo thời gian, khiến ngài phải dùng giày mềm vì da bị sưng. Người có nhiệm vụ thương xót giúp ngài cởi giày nhìn thấy mép giầy in dấu trên ngài. Chỉ Chúa mới biết làm sao ngài có thể mang nổi giày giờ này qua giờ khác! Ngài gọi chứng viêm này là thánh giá hằng ngày. Chứng đau đầu, những cơn đau dữ dội hành hạ ngài cả nhiều tuần lễ vì đau nướu răng; chứng mất ngủ kéo dài; chứng khó tiêu nhiều lúc rất dữ dội; nhịp tim bất thường đến độ dường như một xương sườn chịu không nổi sức đẩy của nó.

Trong mười năm năm cuối đời, những cơn sốt bất chợt đến độ nguy cập; rồi trong vùng xương cùng của ngài mọc một khối u to như trái hồ đào, chúng ta hãy tưởng tượng ngài đau đớn như thế nào khi ngồi hay khi nằm trên giường. Nỗi khó chịu này, vì những lý do dễ hiểu, ngài không bao giờ tâm sự với ai, ngay cả đối với bác sĩ, tuy rằng có lẽ một cuộc giải phẫu nhỏ cũng đủ có thể giúp ngài chữa khỏi, như đã được thực hiện trong cơn bệnh cuối cùng của ngài. Đối với mấy người thân cận, ngài cắt ngắn sự khó chịu khi phải ngồi, nói rằng: - Cha cảm thấy đứng hay đi lại thì khỏe hơn. Ngồi cha cảm thấy mệt.

Một thánh giá khác thuộc loại này, dù nguồn tin không được chắc chắn, nhưng không vì thế mà không biết được thực tại của nó, vì đã được tìm thấy sau khi ngài qua đời. Thánh gía này, ngài mang lấy từ năm 1845. Vào năm đó bộc phát ở Cottolengo bệnh dịch sốt xuất huyết (petecchia), và Don Bosco thường có những cuộc thăm viếng bác ái, nên nhiễm bệnh và mang nó suốt đời. Người lo tẩm liệm xác ngài nhìn thấy mà tỏ lòng thương hại: những vết dộp trên hầu hết da, nhất là đàng sau lưng. Ngay cả roi da để phạt xác cũng không thể làm nên vết thương như thế!

Trong mười năm năm sau cùng, cột sống của ngài bị suy yếu, bởi đó chúng ta nhìn thấy Don Bosco trong dáng thảm thương vì sức nặng của bao thập giá, đi lại nhờ những cánh tay của con cái ngài dìu đi.

Một bác sĩ Pháp nổi tiếng thăm ngài vào năm 1880 tại Marsiglia, nói rằng thân xác của Don Bosco giống như cái áo đã cũ nát vì đã mặc cả ngày lẫn đêm, không thể khâu vá gì được nữa chỉ có cách nghỉ hưu thì mới mong giữ được như nó đang là. Một bác sĩ khác, người chăm sóc riêng sức khỏe của Don Bosco để lại một bản viết rằng “khoảng sau năm 1880, cơ thể của Don Bosco chỉ còn giống như một cái thùng rác trong bệnh viện”.58

Dù cả một khối những bệnh tật đau đớn, không bao giờ ngài có một tiếng than thở, không một dấu tỏ ra mất kiên nhẫn; trái lại, ngài làm việc tại bàn, giải tội lâu giờ, giảng, du hành, giống như người có sức khoẻ hoàn hảo; còn hơn nữa, luôn luôn có cung cách vui hài, nét mặt luôn tỏ vẻ vui tươi và thái độ khích lệ khi nói năng. Người ta bảo ngài hãy cầu nguyện với Chúa để Chúa cất những sự bất tiện đó cho ngài, ngài trả lời: “Dù tôi biết rằng chỉ một lời nguyện tắt đủ để chữa được bệnh, tôi cũng không làm”. Khi nhìn vào Đấng gởi những điều đó cho mình, ngài thấy chúng càng nhiều và càng nặng nề thì càng đáng yêu.

Chính sự kiện này cho chúng ta khám phá ra có một khoảng vô tận trong đời sống mà sẽ không tin nổi nếu không biết rằng Thiên Chúa đáng thán phục biết bao nơi các thánh của ngài.59 Nó làm chúng ta nhớ tới học thuyết có lý của Taulero.60 Vị tiến sĩ thượng hạng (doctor sublimis) nói: “Trong tất cả các lời nguyện mà Đức Giêsu đã làm trong cuộc sống trần gian của ngài, lời cầu nguyện trổi vượt nhất là lời hướng lên Chúa Cha mà thưa rằng: Cha ơi, không phải cho ý con, nhưng là ý Cha được thực hiện. Đó là lời cầu nguyện tôn vinh Cha và được Cha chấp nhận; là lời nguyện sinh ích lợi cho con người và là lời cầu nguyện kinh hoàng nhất cho ma qủi.

Nhờ sự trao hiến ý chí nhân loại này của Đức Giêsu, tất cả chúng ta nếu muốn, chúng ta sẽ cứu được chính mình. Đây chính là lý do tại sao niềm vui lớn nhất và hoàn hảo nhất của những kẻ khiêm nhường là ở chỗ thực hiện đúng như ý Thiên Chúa”. Cũng thế lời đó là lời cầu nguyện mà Don Bosco đã biết thực hiện trong suốt hành trình cuộc sống đau khổ của ngài.


Chú thích

51 Giud 8, 23.

52 Hebr 12, 2.

53 Ioris-Karl Huysmans, Don Bosco. Patronage St-Piere, Nice, p. 13.

54 Is 40, 31.

55 Tv 141, 2.

56 Rom 12, 12.

57 2 Cor 7, 5.

58 Dott. Giovanni Albertotti, Chi era Don Bosco. Tiểu sử – Tâm sinh lý bệnh học – Genova, Fratelli Pala 1934, p. 83.

59 Tv 67, 36.

60 Institutiones, 13.

Chương VII. Thời kỳ sáng lậpChương IX. Những đối kháng mọi mặt