Chương VII. Thời kỳ sáng lập
Trong thời kỳ này tên tuổi của Don Bosco được nhiều nơi trên thế giới biết đến. Các tòa báo đủ mọi loại, các tác phẩm nhỏ, các bức hình được người ta tìm kiếm chuyền tay, các cuộc học hỏi, nói tóm lại tiếng tăm ngài phổ biến vì các công cuộc của ngài. Chưa có vị tông đồ nào lại có nhiều phương tiện quảng cáo cho công cuộc của mình như ngài.
Những thành công đến phiên chúng lại đem vinh quang cho công việc, khẳng định cho những ý kiến cho rằng ngài là một vị thánh hoặc là một vĩ nhân. Người ta thêm rằng chính ngài đã làm tiếng tăm mình ra tầm mức hoàn vũ để quảng bá sứ mệnh của mình, ngài ngỏ lời, viết cho mọi hạng người và quốc gia láng giềng trong nhiều ngôn ngữ. Chủ trương khiêm tốn yên lặng không phải là phương pháp làm việc của ngài. Không thiếu người coi đó là gương xấu: nhưng gương xấu này không đáng kể, đến độ chính những người kiểm duyệt lại phải học phương pháp của ngài.
Chúng ta có một nhận định của Don Cafasso vào năm 1853 trình bày các sự việc trước các vị giáo sĩ có tiếng giỏi giang đang than phiền về Don Bosco. Nhận định này vượt lên những vấn đề vặt vãnh nhỏ bé được nêu ra. Vị linh hướng của Don Bosco nói: “Chắc hẳn các vị biết Don Bosco rất rõ? Đối với tôi, càng tìm hiểu về ngài, tôi càng không hiểu gì! Tôi chỉ thấy ngài là người rất đơn sơ và lại rất phi thường, khiêm nhường mà lại vĩ đại, nghèo khó và bận rộn trong biết bao kế hoạch quá lớn dường như không thể thực hiện, thế mà đã trải qua tất cả, nên tôi phải nói rằng tôi không thể hiểu, sao ngài lại thành công qúa xa như thế. Đối với tôi Don Bosco là một mầu nhiệm! Nhưng điều tôi chắc chắn là ngài làm việc vì vinh danh Thiên Chúa, Thiên Chúa hướng dẫn ngài, chỉ mình Thiên Chúa mục đích của mọi hành động của ngài”.
Chúng ta có thể hiểu chân phước Cafasso là người thận trọng; nhưng khi tiếng tăm về Don Bosco như là một vị thánh đã quá phổ biến, ngài chẳng cần phải giữ yên lặng nữa. Tuy nhiên tiếng tăm đang khi đến tai những người ở xa, không luôn luôn được nhận ra trước mắt những người ở gần vì thực tại nhỏ bé của nó. Đúng như một châm ngôn của chúng ta nói rằng sự thân cận làm mất sự kính nể (gần chùa gọi bụt bằng anh), hoặc như người Pháp nói: “chẳng có ai vĩ đại khi đứng truớc người giúp việc của mình”.
Nhưng đây là cái riêng biệt của Don Bosco: tất cả những ai biết ngài, họ đều đồng thanh làm chứng rằng càng gần gũi với ngài, họ càng xác tín rằng ngài thực sự là một vị thánh. Chính những người này, do nhiều năm sống với ngài, có tất cả cơ hội để tra cứu trực tiếp mức độ mạnh mẽ đời sống nội tâm của ngài, cảm thấy kính trọng gần như tới mức tôn kính (culto) ngài.
Chúng ta không nên để sự thân quen làm chúng ta coi thường sự ưa thích của những người chúng ta chưa biết, giảm lược tiếng nói của dân chúng vào tầm mức qúa nhỏ bé. Ngày nay, bất cứ ai không là người phàm tục đều biết hai điều về đời sống thiêng liêng: chẳng có sự thánh thiện nào có thể hình thành và tồn tại, nếu không tỏ ra như một con người cầu nguyện; và để mất tín nhiệm vào người đó, không cần chi nhiều, chỉ cần nhìn thấy người ấy làm dấu thánh giá một cách cẩu thả là đủ.
Don Bosco sống trong tầm mắt của rất nhiều người, bởi thế các điều ngài làm đều có thể được dò xét bởi những người quan sát biết điều cũng như những người bất cẩn; nhưng tại Nguyện xá ai cũng nhìn nhận có một lòng đạo đức đích thực. Tinh thần cầu nguyện nơi Don Bosco là của một thủ lãnh tốt với tinh thần gan thép, đang khi nơi một nghệ sĩ hoặc một nhà khoa học đó là tinh thần của sự quan sát: một dự thế thường hằng của linh hồn, khiến dễ dàng, vững bền và thích thú để thực hiện.
Trong số các em lớn lên tại nhà của Don Bosco cần phải đề cập đặc biệt tới những em, ban đầu được chính ngài từ từ huấn luyện, rồi trở thành cộng tác viên của ngài, sau đó thành những viên đá nền móng của Tu Hội Salêdiêng. Chúng tôi biết những người đó, họ khác nhau về tài năng và văn hóa, họ khác nhau về khả năng; nhưng nơi tất cả đều có những nét chung mà sẽ tạo thành những đường hướng cho một sự khởi nguồn.
Bình thản trong cách ăn nói và hành động; có những cung cách thể hiện của tình cha; và nhất là, liên quan đến đề tài của chúng ta, có lòng đạo đức, đó là điều được coi là điểm tựa của đời sống Salêdiêng.
Họ cầu nguyện nhiều, cầu nguyện rất sốt sắng; điều quan trọng với chúng ta là họ cầu nguyện và cầu nguyện tốt; dường như họ không phân biệt ra nơi công cộng và nơi riêng tư, mà không có mặt để cầu nguyện. Tuy nhiên, trừ ra trường hợp của Don Michel Rua, một diện mạo đời khổ hạnh cùng với những giây phút thần nhiệm của ngài khiến người ta phải cung kính, những người khác không biểu lộ những đặc ân cầu nguyện phi thường; thật vậy, chúng ta thấy, với lòng đạo đơn sơ chân chính họ chẳng thực hiện những gì hơn với các thực hành do Hiến luật và truyền thống chúng ta đề ra.
Thế nhưng họ luôn chuyên cần trong cách thức tiếp xúc với Thiên Chúa! Và với sự tự nhiên khi nói về những sự cao siêu, họ khơi dậy đức tin! Họ đã sống lâu với Don Bosco, và sự gần gũi này để lại nơi họ những dấu ấn không phai mờ. Có lẽ giống như trường hợp thánh Phaolô tông đồ viết cho tín hữu Corintho: anh em chính là lá thư của chúng tôi, được viết trong chính trái tim của chúng tôi, và được mọi người biết và đọc. Thực vậy anh em chính là lá thư của Chúa Kitô do chúng tôi sáng tác, không phải bằng mực nhưng bằng Thần khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải trên những phiến đá, những trong trái tim bằng thịt của anh em.39 Ai muốn biết tinh thần cầu nguyện của Don Bosco như thế nào, thì đây hãy nhìn xem các môn đệ của ngài, giống như lá thư đích thực của ngài, nơi đó họ sẽ thấy ngài ngỏ lời.
Khi nêu lên vấn nạn về phẩm chất việc cầu nguyện, người ta bàn cãi về giờ giấc và tâm trí Don Bosco, đặt nó trong bối cảnh của bao hoạt động không mệt mỏi của ngài. Sự thiếu vắng những hình thức lớn lao bên ngoài như người ta thường thấy khi các thánh cầu nguyện, không thể phủ nhận được nơi Don Bosco tinh thần cầu nguyện ngay cả trong những khi bận bịu nhất trong đời ngài. Trong tâm hồn ngài sự hiện diện của Thiên Chúa đã ăn rễ qúa sâu, làm sao một khối các công việc lại có thể cản trở ngài gặp gỡ thường hằng và thân tình với Thiên Chúa. Hơn nữa sự cảm nghiệm Thiên Chúa luôn hiện diện khiến cho ngài luôn tỉnh thức và hoạt động chỉ vì một mục đích duy nhất là phục vụ Thiên Chúa. Cũng chính sự hiện diện của Thiên Chúa trở thành nguồn đem lại sự vui tươi giữa một đại dương công chuyện; tất cả mọi hoạt động của ngài không làm gì khác hơn là tìm cách thực hiện một cách hoàn hảo ý Thiên Chúa.
Bởi thế, khi viết cho một linh mục đạo đức để xin ngài giúp một tay điều hành cơ sở đông đúc học sinh của mình, Don Bosco dùng lời khôi hài theo kiểu các thánh: “Xin đến để giúp tôi có giờ đọc kinh phụng vụ”.
Chuyển từ việc này sang việc khác không nghỉ ngơi, đối với Don Bosco giống như đọc kinh liên tục, bởi vì trong mọi sự ngài làm, Don Bosco luôn ngợi khen Thiên Chúa, tận tâm tìm thực hiện ý Ngài. Trong thực tế, cuốn sách kinh mà người linh mục phải giở để đọc, ngài nói rằng ngài cũng giở nó ra như phải làm các hoạt động tông đồ khác trước mặt Thiên Chúa trong tinh thần cầu nguyện vậy. Hình ảnh này gợi nhớ lại thánh Augustino. Vị đại tiến sĩ muốn người tín hữu biến toàn bộ cuộc sống của mình thành bài ca ngợi khen vinh quang Thiên Chúa: đừng ca ngợi Thiên Chúa chỉ bằng miệng luỡi mà thôi, nhưng bằng cả thánh vịnh của các việc làm của đôi tay nữa. Vâng, đây chính là cuốn sách kinh của Don Bosco.
Đúng ở điểm này người ta đọc diễn từ của Đức thánh cha Pio XI ngày 19 tháng ba năm 1929 trong sắc lệnh nhìn nhận các phép lạ của Don Bosco và trong diễn từ có một kỷ niệm cá nhân. Đức thánh cha nói rằng ngài đã có một vài ngày với Don Bosco, dưới cùng một mái nhà, cùng một bàn ăn, vui hưởng ở đó nhiều lần niềm vui vì có thể nói chuyện với vị Đầy tớ Chúa, dẫu rằng luôn bận rộn, ngài có một đặc tính khiến người ta có ấn tượng khó quên: “vô cùng thanh thản, hoàn toàn làm chủ thời giờ, và lắng nghe tất cả mọi người tìm gặp ngài với tất cả sự bình tĩnh như một người không có việc gì khác phải làm”.
Nếu muốn kể lại tất cả các sự kiện và nêu ra tất cả các nhân chứng xác minh cho nhận xét này, có lẽ sẽ phải viết một cuốn sách rất dầy. Nhận xét này liên quan không chỉ đến chuyện làm chủ thời giờ, mà ngay cả làm chủ mình trước sự bất tiện nữa; bởi vì chính sự bình thản và điềm tĩnh giúp ngài đứng vững trước những chướng ngại, trước những khó khăn và những sự không may, dù có nghiêm trọng đến mấy cũng không làm ngài nao núng.
Kỷ niệm còn rất sống động đối với chúng ta lời mà người kế vị thứ nhất của Don Bosco thường hay lập lại, đó là khi cha chúng ta tỏ ra vui và hài lòng hơn thông thường, thì các cộng tác viên thân nhất của ngài thường nói nhỏ với nhau: “Hôm nay chắc chắn Don Bosco gặp phải chuyện gì khó khăn nghiêm trọng, bởi vì ngài tỏ ra vui hơn bình thường”. Don Rua trình bày trong án phong thánh: “Trong những hoàn cảnh như vậy, sức mạnh của ngài là kinh nguyện”. Thực vậy, ngoài chứng từ này, không có một giải thích nào thỏa đáng.
Vị tác giả đạo đức của cuốn “Gương Chúa Giêsu” cho thấy sự bình an và sự điềm tĩnh trong tinh thần chỉ xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất, đó là sự phó thác mình cho Thiên Chúa. Ngài làm cho trái tim thanh thản, bình an và tràn trề niềm vui.40
Chứng từ đẹp về sự kết hiệp thường hằng với Thiên Chúa đó là ngài cảm thấy dễ dàng nói về Thiên Chúa với những tâm tình chân thực. Con cái ngài nhớ tới câu ngài thường thốt ra: “Chúa tốt dường nào, Ngài chăm sóc chúng ta!”. Thiên Chúa là người cha tốt lành, không để chúng ta bị thử thách qúa sức chúng ta. Thiên Chúa là một ông chủ tốt, không để ai mất phần thưởng dù chỉ cho Ngài một ly nước lã vì yêu. Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến Ngài! Hãy xem Chúa đã tỏ ra tốt với chúng ta dường nào! Ngài đã tạo dựng tất cả cho chúng ta, đã lập bí tích Thánh Thể để ở với chúng ta, mọi lúc Chúa đều đổ tràn ân lành cho chúng ta! – Khi nói về việc phục vụ Thiên Chúa vì Ngài là người cha tốt lành, hẳn rằng phải sẵn sàng làm một hy sinh nào đó. Các con hãy nhớ rằng đức tin không có việc làm là đức tin chết – Chúng ta hãy làm hết những gì có thể để vinh danh Chúa hơn!”. Cả những bận rộn trong những vấn đề vật chất cũng không làm ngài đánh mất sự dễ dàng nói về Chúa.
Don Rua nói: “Đôi lúc, trời đã khuya khi chúng tôi đưa ngài đi nghỉ, ngài dừng lại ngắm bầu trời đầy sao, ngài miên man, quên hết mệt nhọc, nói về sự vô biên, sự toàn năng và khôn ngoan của Thiên Chúa. Những lần khác ra ngoài miền quê, ngài làm cho chúng tôi biết chiêm ngắm vẻ đẹp của những cánh đồng và cỏ cây, sự đầy tràn và phong phú của các loại, và như thế ngài nói về sự tốt lành và sự quan phòng thần linh, đến độ ngài thường thốt lên như những môn đệ trên đường Emmaus: Lòng chúng ta đã chẳng cháy lên khi Ngài cùng đi và nói chuyện với chúng ta sao? Cũng một sự dễ dàng tương tự ngài tỏ ra đối với những người lạ mặt, lúc trong nhà cũng như khi ở ngoài, dù họ là những người khiêm tốn hay tự đắc, dù là giáo sĩ hay giáo dân. Ở Marsiglia trong nhà một bà ân nhân có uy tín, đưa cho bà bông hoa pensée ngài nói với bà: “Thưa bà, tôi muốn cho bà một suy tư về sự vĩnh cửu”. Có bông hay không, ngài không bao giờ quên để lại những suy tư tương tự cho người gặp ngài. Một trong những phương châm của ngài là: “Linh mục không bao giờ tiếp xúc với ai mà không để lại cho họ một suy tư tốt”.
Một chứng từ khác nữa về sự kết hợp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa đó là sự dễ dàng và thích thú nói về thiên đàng. Hồng y Cagliero khẳng định rằng Don Bosco “nói về thiên đàng với tất cả sự sống động, thích thú, khiến cho người nghe cảm thấy yêu thích”. Ngài nói về nó như người con nói về nhà của cha mình; ước muốn ở với Thiên Chúa thì mạnh hơn mong muốn phần thưởng Ngài hứa”.
Khi nghe những lời ca thán về các khó khăn, vất vả, bổn phận, ngài khích lệ họ: “Con hãy nhớ rằng con đau khổ và cực nhọc cho một ông chủ tốt bụng là Thiên Chúa. Con hãy làm việc và chịu đau khổ vì yêu Chúa Giêsu, Đấng đã cực khổ và đau khổ vì con. Chỉ cần một chút thiên đàng cũng đủ chỉnh đốn tất cả những điều này”. Đối với người tỏ ra bực bội và có thái độ thù nghịch, ngài trả lời: “Những điều này, không có trên thiên đàng! Những đau khổ trong cuộc sống này chỉ mang tính tạm thời, còn niềm vui trên thiên đàng thì vĩnh cửu”.
Một ông nhà giàu có hạng kia vốn chẳng tin tưởng gì, một hôm đến thăm Don Bosco vì tò mò, trước khi chia tay ngài nói với ông: “Chúng ta hãy làm sao đến một ngày ông cùng tiền bạc của ông và tôi cùng với sự nghèo khó của tôi chúng ta có thể gặp nhau trên thiên đàng”. Khi nghe nói tới kỳ nghỉ mùa thu, ngài hay lập lại khẩu hiệu này: “Chúng ta sẽ nghỉ ngơi trên thiên đàng”. Sau những mệt nhọc vì công việc từ thành phố trở về, người ta nói ngài nghỉ một chút trước khi đi ăn hay đi giải tội, ngài trả lời: “Cha sẽ nghỉ trên thiên đàng”. Sau những cuộc tranh luận dài, ngài kết thúc: “Trên thiên đàng sẽ không còn những đối kháng, tất cả chúng ta sẽ có cùng một suy nghĩ”.
Ngài thường kêu lên: “Thích biết bao, khi tất cả chúng ta ở trên thiên đàng! Chỉ cần sống tốt là đủ, không phải sợ chi! – Mà các con tin rằng Chúa dựng nên thiên đàng để rồi để nó trống rỗng ư? Nhưng nhớ nhé thiên đàng phải trả giá bằng hy sinh”. Đối với một nhà thần học giàu có có tiếng tham lam kia, ngài say sưa nói về thiên đàng, đến nỗi ông ta chạy đến két sắt, lấy mấy lá vàng và trao chúng cho Don Bosco trong một cử chỉ hết sức thân thiện.
Một ngày nọ, đang khi ăn ở ngoài với một số linh mục, người ta thích thú bởi sự tốt đẹp của một số thành qủa đạt được trong bàn ăn, ngài bắt đầu nói về thiên đàng cách hăng hái, đến nỗi các vị đồng bàn ngừng ăn say mê lắng nghe. Một người trong số đó khẳng định rằng: “Nếu có ai lúc đó hỏi ngài: - Don Bosco, chúng ta đang ở đâu đấy? hẳn ngài sẽ trả lời: - Chúng ta đang ở trong thiên đàng”. Thánh Augustino nói: niềm khao khát thiên đàng chính là sự kéo dài của kinh nguyện.
Chứng từ khác về sự thường hằng kết hợp với Thiên Chúa đó là sự luôn dễ dàng nói ra lời tốt lành. Đấng kế vị thứ hai của Don Bosco nói rằng ngay cả trong những trường hợp bất ngờ, phải lo vê chuyện gì đó, dường như ngài cắt đứt cuộc đàm thoại với Thiên Chúa để tiếp chuyện và lấy từ Thiên Chúa những suy nghĩ và sự khích lệ”. Về sự dễ dàng nói về Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khó khăn, có rất nhiều thí dụ; nhưng chúng ta giới hạn ở đây với một nhà viết tiểu sử đặc biệt mà thôi.
Các linh mục của Nguyện xá, nhất là các bề trên, thường đến với ngài để xưng tội trong các giờ dành để giải quyết các vấn đề trong ngày và các công việc vật chất. Tuy thế, Don Bosco luôn luôn nghe xưng tội với cùng những tâm tình và sự hăng say, như thể ngài vừa mới làm lễ xong.
Giống như khi nói cũng như thế ngài làm. Khi nghe ngài nói, người ta cảm thấy một thường xuyên tiếp xúc với Thiên Chúa; khi ngài làm người ta thấy một linh mục nhiệt thành. Nhiệt thành có nghĩa là một sự hăng hái trong tâm hồn, và trong ý nghĩa Kitô giáo nó được thánh Ambrogio đưa vào khi ngài dịch chữ fidei vapor và devotionis fervor. Lòng nhiệt thành vì thế có nghĩa là sự phát ra ngoài cái đức tin bên trong: một đà lực của lòng đạo đức hướng tới Thiên Chúa, đà lực mà tự nó nung nấu và phát ra sức nóng và sức mạnh. Tuy nhiên, lòng nhiệt thành không phải là sự nhiệt tình, nghĩa là sự hứng khởi khác thường mà rồi sẽ cạn kiện. Lòng nhiệt thành có một nhãn giới cao hơn, hoạt động liên lỉ và tiệm tiến, dù có bất cứ cản trở nào từ phía con người hay sự vật.
Lòng nhiệt thành của Don Bosco rập khuôn theo lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu, nung đốt bởi vinh quang Thiên Chúa qua hoạt động cứu rỗi các linh hồn và chiến đấu chống tội lỗi; cách thức của nó là luôn dùng đến lòng tốt để chinh phục trái tim mọi tâm hồn. Các thanh thiếu niên của Nguyện xá hạnh phúc, chúng diễn tả trong một câu cho thấy đức tin và lòng đạo đức của nơi chúng ở: “Don Bosco giống Chúa”.
Qua lời này chúng ta hình dung ra Don Bosco là người hoạt động, đi lại, làm việc với chân trên đất, với đôi tay làm việc, và với đôi mắt đăm nhìn ánh sáng từ trên cao, soi sáng toàn thể con người và toả chiếu trong suốt cả cuộc đời.41 Ở điểm này cần phải tìm kiếm nơi chính Don Bosco trước khi tìm vào những công cuộc của ngài.
Thánh Bonaventura phân biệt ba loại kinh nguyện, chung, riêng và trải dài; ngài khuyên đặc biệt các bề trên, là những người vốn có nhiều công việc, về kinh nguyện thứ ba này. Kinh nguyện trải dài đòi hỏi ba điều: thứ nhất luôn hướng suy tưởng lên Thiên Chúa giữa các lo lắng; tiếp đến linh hồn phải luôn tìm kiếm tôn vinh Thiên Chúa; thứ ba thỉnh thoảng âm thầm dâng lên tâm tình cầu nguyện. Theo nghĩa này, từ dấu thánh giá cho tới thánh lễ, từ những phương châm sống cho tới những bài giảng, từ những việc nhỏ trong nhà cho tới những công việc to lớn, mọi hành động của Don Bosco đều thấm nhập lời kinh nguyện; tuy nhiên trong những công việc lớn, tinh thần cầu nguyện này trở thành một sức mạnh thúc đẩy ngài hoạt động vì vinh quang Chúa.
Trước khi bắt đầu để tâm vào sâu trong bất cứ hoạt động nào, ngay cả khi phải tính toán xem có hay không các phương tiện cần thiết, ngài luôn canh chừng mình khỏi kiểu tính toán khôn ngoan thuần tuý nhân loại. Ngài nói: “Tôi luôn tuân theo tiêu chuẩn này trong mọi công việc của tôi. Trước hết tìm xem công việc đó có vì vinh danh hơn cho Thiên Chúa và ích lợi cho các linh hồn không. Và nếu đúng như thế, tôi tiến tới trong sự vững tâm rằng Thiên Chúa không bao giờ để thiếu sự trợ giúp của Ngài; còn ngoài ra nếu thấy rằng điều tôi tưởng nghĩ ra đó, hoặc điều tôi tin đó có ra mây khói, tôi hoàn toàn hài lòng”.
Ngài biến đổi điều đó cho mình thành hạnh phúc. Nếu chúng ta muốn biết ngài đã phản tỉnh thế nào, đây chúng ta có chứng từ của một lá thư ngài trả lời cho cha Felice Giordano dòng Tận Hiến Đức Mẹ Đồng Trinh, cha này là người tò mò muốn biết các công cuộc của Don Bosco dù to lớn như thế làm thế nào mà tiến triển tốt đẹp được. Don Bosco nói: “Xin cha hãy biết rằng tôi chẳng có vai trò nào cả. Chính Chúa làm mọi sự; khi Ngài muốn cho thấy một công cuộc là của Ngài, thì ngài sử dụng công cụ không thích hợp. Đó chính là trường hợp của tôi. Nếu Ngài tìm thấy một linh mục nào đó khốn khổ hơn tôi, Ngài sẽ chọn nguời đó để làm, và để Don Bosco thấp kém này làm một cha sở họ lẻ miền quê”.
Thế gian nói về những chuyện của ngài, còn chính ngài thì nói về việc của mình cho thế gian. Ngài mặc họ muốn nói sao thì nói. Ngài thường hay nói: “Người ta tôn vinh công cuộc của Chúa, chứ không tôn vinh việc của con người. Còn nhiều điều kỳ diệu hơn nữa Chúa đã có thể thực hiện, nếu Don Bosco đã có đức tin hơn!” Quy tất cả công lao cho Thiên Chúa là điều rất tự nhiên khi ngài dùng những hình thức quảng bá. Ngài có một tiêu chuẩn thực tiễn đó là: “Thật là phải lẽ khi những người làm việc bác ái biết việc đó kết quả ra sao. Chúng ta sống trong một thời mà thế giới đã trở nên vật chất, người ta muốn thấy và sờ bằng tay; bởi thế hơn bao giờ hết cần phải làm cho những công việc tốt của chúng ta được biết đến, để Thiên Chúa được tôn vinh”.
Trong khi thủ tục phong thánh tại tông tòa có rất nhiều nhân chứng đã chính mình nghe kể những thăng trầm của đời ngài, tất cả họ đều diễn tả cùng một suy nghĩ, rằng khi nói như thế, Don Bosco nghĩ xa hơn chính bản thân mình. Sự xác tín rằng mình là một dụng cụ khiêm tốn của Chúa quan phòng đã nâng đỡ ngài trong những thời khắc cực kỳ tế nhị; bởi vì Thiên Chúa đã cho phép con người phán xét không lập tức luôn thuận lợi về công cuộc thực hiện. Chính thẩm quyền tối cao của địa phận cũng chậm hiểu về Don Bosco, dường như tin rằng sẽ làm tôn vinh Thiên Chúa khi đối kháng lại ngài. Qủa là một chén đắng cho một Don Bosco khốn khổ! Lời than trách duy nhất từ cửa môi ngài thốt ra hoặc do ngòi bút nào đó gán cho ngài trong cơn thử thách đổ máu này cho thấy sự khó chịu vì đã buộc ngài mất nhiều thời giờ, đang khi có thể làm nhiều điều tốt vì vinh danh Chúa, vốn là mục tiêu duy nhất của Ngài.
Một ngày nào đó cuốn bút ký dầy cộm của ngài sẽ chứng minh sự khao khát vô tận của ngài muốn làm vinh danh Thiên Chúa và muốn nhóm lên khao khát này trong lòng các linh mục của hàng giáo sĩ triều và dòng có liên lạc thư từ với ngài, đặc biệt trong lòng con cái ngài. Cho các con cái ngài, đó là những lời cảnh tỉnh đầy tình cha viết trong khung cảnh của lòng đạo đức, ghi dấu về điều này: “Trong những chuyện thiêng liêng, các vấn đề phải được giải quyết để vinh danh Chúa hơn. Công việc, sự ương ngạnh, tinh thần báo thù, lòng yêu bản thân, lý luận, tự phụ và cả danh dự nữa, trong trường hợp này tất cả đều phải hy sinh”. Đây chính là ngôn từ của người đã quen sống giữa con người với tâm trí gắn liền vào Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói rằng mọi người Kitô hữu không phân biệt, tùy theo ơn gọi riêng của mình, có bổn phận tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa.42 Nếu thế thì sứ mạng của linh mục, thừa tác viên của Đức Kitô, không thể khác với sứ mệnh của Chúa, nghĩa là cứu các linh hồn: Con người đến để tìm kiếm và cứu những kẻ hư mất.43
Từ ngày chịu chức thánh Don Bosco không ước muốn là gì khác hơn là linh mục, về các chức vụ khác ngài cũng chẳng ao ước nếu như nó không gắn liền với tính cách linh mục. Ngài không có một tham vọng về một tước vị nào đi trước tên của mình trừ ra chữ linh mục. Ngài cũng không chấp nhận một huy hiệu nào khác trừ ra những cái cho thấy ngài là linh mục. Ngài không nghĩ tới một kiểu nào khác để tôn vinh Thiên Chúa nếu đó không nằm trong sự phục vụ của linh mục. Nói chính xác hơn, đó là những công cuộc làm vinh quang hơn cho Thiên Chúa, điều mà Pseudodionisio nói:44 việc thần linh nhất giữa các việc thần linh, đó là cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ các linh hồn.
Chính ở điểm này các Salêdiêng lãnh nhận từ Don Bosco giáo huấn thẩm quyền và sẽ trở thành gia sản của truyền thống gia đình. Don Bosco nói thế này: “Một linh mục luôn là một linh mục, và phải chứng tỏ là như thế trong mọi lời nói của mình. Thế nên là linh mục nghĩa là có bổn phận liên lỉ tìm ích lợi của Thiên Chúa, tức là cứu rỗi các linh hồn.
Một linh mục không bao giờ được để ai đến gần mình để rồi ra đi không được nghe một lời nhằm phần rỗi đời đời của họ”. Từ mục đích linh mục này ngài ấn định trong các nhà của ngài, bắt đầu từ ngôi nhà được gọi là nhà mẹ. Ngài giảng cho con cái ngài: “Các con hãy nhớ rằng Nguyện xá đã được lập ra do Đức Trinh Nữ rất thánh vì một mục đích duy nhất là cứu rỗi các linh hồn”. Vâng, đó lý do tại sao trong huy hiệu Salêdiêng ghi khắc khẩu hiệu: Da mihi animas. Đây là mệnh lệnh trong cả cuộc đời ngài.
Chúng ta không thể kể lại từng chút cuộc đời của Don Bosco. Giáo huấn của ngài cho các hội viên có chức linh mục nếu thu góp lại thật vô cùng rộng lớn: sự làm việc không mệt mỏi của ngài, các mệt nhọc ngài đã chịu đựng, và các hy sinh anh hùng mà ngài đã trải qua, những lời rên rỉ, ao ước và cầu nguyện của ngài. Vâng, nhất là các lời cầu nguyện, không có điều này ngài đã không thể có sức mạnh để đi gieo giữa biết bao nước mắt, mà cũng đã không thể có được mùa gặt dồi dào.45
Một trong các nhà thần học hiện đại nói: “Nơi đâu thiếu đời sống thiêng liêng, hoạt động bên ngoài chẳng gặt hái được gì trừ ra những kết qủa so bại, bởi vì ân sủng của Thiên Chúa không ban xuống để làm phong nhiêu một tác vụ mà trong đó kinh nguyện không có chỗ đứng; vì thế cần phải bắt đầu các công cuộc bên ngoài với tinh thần cầu nguyện…”.46
Kẻ thù lớn của Thiên Chúa là tội lỗi, vì nó làm các linh hồn xa khỏi Ngài; nó cũng là kẻ thù của linh hồn vì nó đẩy linh hồn vào hỏa ngục. Don Bosco dấn thân cả đời chống lại tội lỗi. Một đêm nọ ngài không thể ngủ được vì biết rằng một học sinh của ngài đã phạm tội; chiều hôm sau, đứng trên bục cho huấn từ tối, cả con người ngài tỏ ra buồn rầu… Nghĩ về tội trọng nơi những kẻ thuộc về mình, ngài cảm thấy đau đớn tận trong linh hồn,47 như lời thánh Phaolô khi nhìn thấy dân Athen thờ các ngẫu tượng.
Khi giảng về sự nặng nề của tội trọng, ngài thường nghẹn vì khóc, đôi lúc ngài không thốt lời ra được, buộc phải ngưng buổi huấn đức; ngay cả trong những cuộc đàm thoại thân tình, khi nói tới sự xúc phạm tới Thiên Chúa, khuôn mặt ngài tái đi và giọng ngài tỏ lộ sự đau đớn. Thậm chí ngài đau đớn về thể lý đối diện với các hành vi tội lỗi, hoặc khi nghe tố giác về những tội nghiêm trọng; cũng thế khi nghe lời lộng ngôn ngài như bị ngất xỉu, và khi ngài nghe xưng tội về sự bất trinh ngài cảm thấy bị tình trạng muốn nôn mửa hoặc như ngửi thấy mùi hôi thối hay ngộp thở.
Một ngày nọ Don Francesia nhìn thấy ngài bất chợt đau đớn nơi hai tai, liền hỏi ngài trong tâm tình con thảo, xem ngài đêm hôm trước có làm việc qúa mức không, và người cha tốt lành đã trả lời rằng ngài đã đi giải tội trong tù nhưng ngài không thể ra việc đền tội được, nên chính ngài làm việc đền tội thay cho các hối nhân. Qủa thực người ta có thể mường tượng tội lỗi đã làm ngài thành vị tử đạo như thế nào; nhưng nó cũng làm cho ngài tăng gấp trăm lần sự nỗ lực, đến độ như ngài nói, nếu có một đạo quân chống lại ngài, ngài cũng không bao giờ đầu hàng.
Khi tội đã xảy ra, nhất là trong trường hợp gây ra gương xấu, nó làm ngài ớn lạnh, khiến ngài thốt lên cách đau đớn: “Ôi, tai hại! Tai hại!”. Tội lỗi mà ngài sợ khiến ngài bất an, vì lẽ đó ngài nói rằng nếu Nguyện xá không còn tương ứng với mục tiêu ngăn cản tội lỗi thì thà nhìn thấy nó bị phá hủy còn hơn. Một trong những tuyên bố cá nhân khá hiếm hoi của ngài được nghe thấy: “Don Bosco là một người tốt bụng nhất trên thế gian này. Các con có thể phá phách, hò hét, nghịch ngợm, ngài sẽ thông cảm với các con, bởi vì các con còn trẻ. Nhưng đừng gây gương xấu, đừng hủy hoại linh hồn các con và linh hồn người khác với tội lỗi, bởi vì ngài sẽ không khoan nhượng đâu”.
Con người cầu nguyện biết biết nại tới những biện pháp mạnh riêng của mình để ngăn cản sự xúc phạm tới Thiên Chúa, những biện pháp mà người khác có lẽ ngay cả không nghĩ ra. Trong nhà của một số người qúy phái kia, có một đứa trẻ năm tuổi làm lật cái xe đẩy mà nó đang chơi, nó liền nổi giận kêu tên Chúa Giêsu một cách bất kính. Don Bosco gọi nó lại với ngài, bảo nó một cách dịu dàng: - Sao con lai kêu tên Chúa một cách bất xứng như thế? – Bởi vì cái xe không muốn đi theo ý con. – Nhưng con không biết rằng không được kêu tên Chúa mà thiếu kính trọng và thiếu lòng đạo đức hay sao? Nói cho cha biết, con có biết các điều răn không? – Biết – Tốt lắm, con đọc cho cha nghe được không? – và đứa nhỏ vâng lời ngài. Don Bosco để nó đọc tới điều thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ, ngài ngưng nó lại và hỏi: - Con có biết không kêu tên Chúa vô cớ nghĩa là gì không? Con à, nó có nghĩa là không cần phải kêu tên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta, nếu không có lý do chính đáng và thiếu lòng tôn kính; nếu không chúng ta sẽ phạm tội, nghĩa là làm mất lòng Chúa, đặc biệt là kêu tên Ngài lúc tức giận như con đã làm đó. – Đứa bé đáp lại: - Ba con vẫn kêu như thế! Cha đứa bé đang đứng đó cảm thấy hối hận, liền ngắt lời: - Nhưng từ nay ba sẽ không nói nữa.
Một lần khác, đang khi đợi xe lửa khởi hành, ngài nghe thấy đứa nhỏ con của một công nhân thỉnh thoảng cứ kêu lên: Chistô! Chistô! Ngài vẫy tay ra hiệu gọi nó: - Lại đây, chú bé. Con có muốn cha dạy con phát âm cho đúng không? Này nhé, con bỏ mũ ra và thật chú ý. Người ta đọc là Kitô không đọc là Chistô. Con xem này: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. Chú ý nhé: không phải Chistô mà Kitô.
Tháng năm năm 1860 ngài bị một cuộc lục xét bất ngờ không mấy thích thú. Khi Don Bosco đang mở cửa phòng, một trong ba người thanh tra đọc mấy lời viết trên cửa với giọng diễu cợt: Hãy luôn luôn chúc tụng thánh danh Giêsu và Maria. Don Bosco quay mặt lại, ngăn chặn ông và đọc lại: Hãy luôn luôn chúc tụng thánh danh…, ngài ra lệnh cho cả ba người bằng một giọng truyền lệnh nghiêm khắc: - Hãy bỏ mũ ra. – Nhưng chẳng có ai trong bọn nghe lời. Ngài ra lệnh lần nữa: - Các ông đã bắt đầu, thì phải kết thúc với sự kính trọng xứng hợp. Và ngài ra lệnh cho từng người bỏ mũ xuống. Lần này uy thế người của Thiên Chúa đã áp đặt họ. Bọn họ tỏ ra cung kính. Lúc đó ngài tiếp tục câu bỏ dở: … thánh danh Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Đó là những lời nói và sự kiện đó giải thích cho bao điều khác, chẳng hạn, những giờ dài vô tận ngài giải tội; những tấm hình của Đaminh Savio với hàng chữ thà chết chứ không phạm tội; phương pháp giáo dục nhằm ngăn chặn tội lỗi.
Chúng cũng giải thích lý do tại sao trong Nguyện xá có một bầu khí sợ tội, không chỉ là tội trọng mà ngay cả tội nhẹ; tại sao có một tinh thần sửa chữa khiến nhiều bạn trẻ đền bù tội của những kẻ khác không chỉ bằng việc cầu nguyện mà ngay cả bằng sự hãm mình; tại sao luôn có khắp nơi một sự lưu tâm hằng thúc đẩy các em tốt hơn biết canh chừng để ngăn ngừa tội lỗi thấm nhập vào các bạn của chúng.
Điều gây cảm động là trong diễn tiến án phong thánh người ta thấy một sự đồng tâm mà các chứng nhân, giáo sĩ cũng như giáo dân, những người đã từng sống trong môi trường đó, nêu lên về sự nhiệt thành của Don Bosco, không phải với một thứ ngôn ngữ đã cũ kỹ khi gợi lại từ trong trí nhớ những kỷ niệm xưa, nhưng với cung giọng của những người cảm thấy mình còn đang sống những ấn tượng thâm sâu và thân thiết.
Một đoạn văn của thánh Toma sẽ soi sáng cho vấn đề này. Vị tiến sĩ thiên thần lập luận rằng: “Tình yêu của những người bạn hữu có đặc tính này, đó là tìm điều ích lợi cho người mình yêu. Bởi thế khi tình yêu này nồng cháy, nó làm người bị thiêu đốt phải chuyển động, phải phản ứng chống lại tất cả những gì đối kháng với ích lợi của bạn mình; theo nghĩa này người ta nói: ai tìm tòi để ngăn ngừa những gì có thể gây hại, dù là lời nói hay hành vi, cho bạn mình, đó là người thương yêu bạn.
Một cách tương tự người ta gọi là người nhiệt thành đối với Thiên Chúa, những ai dùng hết sức mình để chống lại những gì đối kháng lại danh dự và ý muốn của Thiên Chúa, và chúng ta gọi những người làm hết sức mình để chữa trị những sự dữ hoặc những người phải than khóc vì không thể chịu đựng sự dữ, là những người bị tiêu hao vì lòng nhiệt thành thánh”. Đây là lý do tại sao tội lỗi làm thương tổn và làm đau đớn trái tim của Don Bosco.
Don Bosco cháy lửa tình yêu Thiên Chúa và ngài cảm thấy mọi tội lỗi là một sự xúc phạm đến Chúa của mình. Không ít lần người ta nghe ngài thốt ra những tình cảm tương tự như sau: “Làm sao có thể một người khôn ngoan, tin nơi Thiên Chúa, mà lại để mình xúc phạm tới Ngài như thế được?... Tai sao lại cư xử như thế đối với Chúa?... Nhưng các con thấy Chúa tốt dường nào! Ngài tuôn đổ trên chúng ta ơn lành mỗi ngày. Tại sao lại xúc phạm đến Ngài? Phải nói rằng người xúc phạm đến Chúa, tỏ ra không còn là chính mình nữa”. Những diễn tả như thế thốt ra nơi miệng ngài, nhưng ai là người kể lại cho chúng ta những ấn tượng trong tâm hồn say mến Thiên Chúa của ngài?
Cạnh ngôi nhà sinh trưởng của Don Bosco có một nhà nguyện, đó là một biểu tượng. Chính ngài đã sửa soạn nó vào năm 1848 cho chính mình và cho các thiếu niên, khi thì một mình, khi thì có vài em đi theo ngài từ Nguyện xá về đó vài ngày để hít thở không khí vùng quê sinh trưởng. Nơi đây được giữ lại nguyên vẹn như thưở ban đầu.
Phía tường bên phải, người bước vào nhìn thấy một chiếc ghế mà ngài đã ngồi giải tội; phía trước mặt, ngay chính giữa là bàn thờ, nhà tạm không trang hoàng nhưng chắc chắn để lưu giữ Mình Thánh Chúa; phía trên là bức tranh Đức Trinh Nữ rất thánh. Ba yếu tố chính yếu và hữu hiệu mà Don Bosco dùng để thánh hóa chính mình, các kẻ thuộc về ngài và cho tất cả mọi người: thường xuyên xưng tội, thường xuyên rước lễ, sùng kính Mẹ Maria rất thánh. Mẹ Maria chính là người kêu mời đến với Chúa Giêsu qua bí tích Hoà giải và bí tích Tình Yêu.
Trong một là thư đề ngày 13 tháng hai năm 1863 Don Bosco thưa với Đức Pio IX: “Xin Đức thánh cha hãy theo đuổi ý tưởng mà Thiên Chúa soi sáng trong tâm hồn Đức thánh cha, công bố mọi nơi rằng có thể tôn kính Thánh Thể Chúa và lòng sùng kính Đức Trinh Nữ rất thánh, vốn là hai cái neo của ơn cứu độ cho nhân loại khốn cùng”. Những hoạt động vô kể trong những năm lập các công cuộc quan trọng để lan vào các vùng lân cận và quảng bá tới tận cùng trái đất lòng tôn sùng con thảo đối với Đức Trinh Nữ rất thánh sẽ không có đủ lý do, nếu tự bên trong ngài không có một lòng sùng mộ bừng cháy đối với Mẹ của Thiên Chúa. Thực vậy lòng sùng kính này góp phần rất lớn vào sự đào luyện thiêng liêng của ngài và vào sự phát triển của đời sống nội tâm ngài.
Vị thánh mà Giáo hội gọi là thầy của các bậc thầy về lòng sùng kính Đức Mẹ khuyên chúng ta: hãy nghĩ tới Maria, hãy kêu cầu Maria. Chiêm ngắm Maria, kêu cầu Maria không khi nào tắt trong trái tim và trên môi miệng của Don Bosco; chính nơi đây lòng đạo đức của ngài tháp nhập vào trong truyền thống Công giáo chân chính.
Môi miệng Don Bosco hằng đọc những kinh xưa cũng như kinh mới để tôn vinh Mẹ, nhằm rót vào mọi người sự tín thác con thảo mà trái tim ngài nuôi dưỡng đối với Mẹ. Người ta thấy ngài luôn kêu cầu trong tâm tình con cái đối với Đấng Bảo Trợ từ trời cao, và người ta thường thấy ngài luôn miệng cám ơn cách công khai về những ơn vô số mà Đức Mẹ Phù Hộ đã ban cho ngài. Ngài thốt lên với giọng dịu dàng trong biết bao dịp khác nhau: “Mẹ Maria tốt biết bao!”. Khi được khen ngợi về các công cuộc, Don Bosco đau lòng và nói: “Đám người này không biết Don Bosco là ai cả; người làm tất cả, đó chính là Mẹ Maria Phù Hộ”.
Khi giảng về sự vĩ đại quyền năng của Mẹ Maria, ngài xúc động đến độ bật khóc. Người ta kể rằng ngài thường nhấn mạnh luôn rằng ngài đã không đi một bước mà không chạy tới Mẹ Maria. Để được ơn soi sáng trong những giây phút quan trọng, ngài đã hành hương ít là ba lần tới đền thánh nổi tiếng ở Oropa – Biella.
Trong các thư của ngài, ngài thường luôn dùng câu này: “Xin Đức Trinh Nữ rất thánh gìn giữ chúng ta mãi thuộc về Người”. Kết thúc một bài viết về Đức Mẹ không rõ tác giả, bản in thử này hiện vẫn còn được lưu giữ, Don Bosco để lại dấu ấn của mình trong một lời khuyên bức xúc không phải từ nét viết mà từ con tim của ngài: “ Bạn đọc thân mến, bất cứ bạn ở đâu, làm bất cứ việc gì, bạn có thể chạy tới Đức Trinh Nữ rất thánh bằng lời cầu nguyện. Nhưng hãy tới với Mẹ bằng đức tin, vì Mẹ là người mẹ thương xót hằng muốn và luôn có thể làm điều lành cho con cái ngài. Hãy cầu nguyện với Mẹ bằng trái tim, cầu nguyện kiên trì, và hãy tin chắc rằng Mẹ chính là sự quan phòng của Thiên Chúa cho bạn, là sự cứu trợ khẩn cấp khi bạn có những nhu cầu thiêng liêng và vật chất”.48
Người ta kể lại việc Đức Mẹ hiện ra cho thánh trẻ Stanislao Kostka khi truyền lệnh cho ngài gia nhập dòng tên; cũng tương tự Don Bosco thêm vào trong bản in: “Hỡi các Kitô hữu muốn trở thành thân thiết của Mẹ Maria, hãy cầu nguyện với Mẹ bằng trái tim để được ơn thánh hiến mình cho Thiên Chúa. Hãy xin với Mẹ cất các bạn khỏi những nguy hiểm của thế gian; xin Mẹ làm cho các bạn như Mẹ đã truyền lệnh cho thánh Stalisnao, và cho các bạn sẵn sàng vâng nghe. Ơn được kêu gọi vào đời sống tu sĩ là điều mà Đấng đáng kính Carlo Giacinto đã xin Mẹ Maria từ thời còn nhỏ”.49 Cả hai đoạn văn trích thuật đều là những tâm tình tự phát sống động của lòng đạo đức hướng tới Đức Mẹ.
Như trái tim của Don Bosco cảm thấy hạnh phúc mỗi khi nghĩ về Mẹ Maria, tâm hồn chúng ta cũng vui sướng suy nghĩ về tầm quan trọng của nó, càng ham thích thì càng không quên người khác trong các hoạt động của ngài. Tuy nhiên có những hoàn cảnh trong đó, mặc dù tính tình kín đáo, cảm xúc tự nó bộc phát.
Lá thư của Don Bosco đề ngày 6 tháng tám năm 1863 cho “các học sinh nhỏ rất yêu dấu” bộc lộ một tình cảm dạt dào. Người cha tốt lành mời tất cả chúng chia sẻ với ngài trong tinh thần những cảm nghiệm ngọt ngào mà ngài có khi tin tưởng vào Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lòng đạo đức của môi trường được thấm nhiễm bởi tinh thần suy niệm của ngài; ngài thấy sung sướng khi được nhìn thấy lòng sốt mến đối với Nữ vương thiên đàng tràn ngập; và cảm thấy cần phải làm cho con cái ngài cảm được chính cái cảm xúc của mình. “Ô, các con thân mến, nếu các con ở trên ngọn núi đó, chắc chắn chúng con sẽ xúc động. Đó là một khu lớn, mà ở trung tâm có một ngôi nhà thờ, người ta gọi đó là Đền thánh Oropa. Nơi đây luôn luôn có người lui tới kính viếng. Người thì đến tạ ơn Đức Trinh Nữ vì các ơn đã nhận được, người thì xin ơn để thoát khỏi một sự dữ tinh thần hay vật chất, người thì cầu nguyện để được bền đỗ trong đường ngay lành, người thì xin cho được ơn chết lành. Tại đó người ta thấy liên lỉ từng đoàn người, già có trẻ có, giàu có nghèo có, nông dân có qúi tộc có, công tước bá tước có dân lao động có, thương gia, đàn ông đàn bà, cha xứ, học sinh, các tầng lớp đều có, đến xưng tội và rước lễ rồi sau đó đến chân tượng Mẹ Maria rất thánh thành tâm khẩn cầu”.
Tuy nhiên niềm vui của ngài cũng pha với nỗi buồn, bởi vì ngài không được vây quanh bởi đám con cái như tại Nguyện xá, để dẫn chúng tới tỏ lòng tôn kính với Mẹ diễm phúc. “Thế nhưng giữa dòng người này, trái tim cha cảm thấy buồn. Vì sao vậy? Bởi vì không nhìn thấy các bạn trẻ học sinh yêu dấu của cha. Đúng vậy, sao cha lại không thể có các con yêu qúi ở đây để dẫn tất cả tới chân Mẹ Maria, để dâng chúng cho Mẹ, để đặt chúng dưới sự bảo vệ quyền thế của Mẹ, để làm cho chúng trở nên như Đaminh Saviô hoặc như thánh Luigi nhỉ?”.
Trước sự tiếc xót vì không thể tôn vinh Mẹ một cách long trọng cùng với con cái mình, Don Bosco tìm được sự nâng đỡ trong lời hứa khi cầu nguyện. “Để tìm lại sự an ủi cho lòng mình, cha đã tới bàn thờ Mẹ và đã hứa rằng, khi về đến Torino, sẽ làm những gì mình có thể để nung đốt nơi trái tim các con lòng sùng kính Mẹ Maria. Và phó thác mình cho Mẹ, cha đã xin ơn đặc biệt này cho các con. Cha đã thưa: - Lạy Mẹ Maria, xin chúc lành cho tất cả nhà của chúng con, xin đẩy xa trái tim của các bạn trẻ bóng tối tội lỗi; xin Mẹ là người hướng dẫn các học sinh, xin hãy trở nên là tòa Đấng khôn ngoan cho chúng. Xin cho chúng thuộc về Mẹ, thuộc về Mẹ luôn mãi, như những đứa con nhỏ và như những người yêu mến Mẹ. – Cha tin rằng Đức Trinh Nữ rất thánh nhận lời cha và cha mong rằng các con giúp cha một tay, để chúng ta có thể đáp lại lời Mẹ Maria, đáp lại ơn thánh Chúa”.
Sau cùng trái tim Don Bosco yên hàn trong niềm tín thác như thể thấy rằng Mẹ Maria đã nhận lời, từ trên ngọn núi Oropa đã giơ tay chúc phúc cho Nguyện xá Valcocco thân yêu, đã trải khăn choàng để bảo vệ tất cả những ai cư ngụ trong đó. “Xin Đức Trinh Nữ rất thánh Maria chúc lành cho cha, cho tất cả các linh mục, tu sĩ và mọi người đang làm việc vất vả cho ngôi nhà chúng ta, và cho tất cả các con. Từ trời, xin Mẹ phù giúp chúng ta, và chúng ta phải làm mọi sự để xứng đáng được Mẹ che chở khi sống cũng như khi chết. Amen”.
Từ nơi đền thánh trở về, với đôi mắt nhìn về tương lai, Don Bosco mấp máy đôi môi trong sự tín thác: Tôi hướng mắt nhìn lên rặng núi, nơi ơn cứu độ sẽ đến với tôi.50Lúc này ngài sắp sửa xây dựng đền thánh Mẹ Phù Hộ.
Don Bosco đã có một ý tưởng gây kinh ngạc về đền thánh này. Ngay chính giữa, phía trên cao, Mẹ Maria rất thánh ở giữa thiên thần; gần chung quanh Ngài là các thánh tông đồ, các thánh tử đạo, các tiên tri, các thánh trinh nữ, các thánh hiển tu; phía dưới, các chiến thắng của Mẹ Maria và các dân tộc cầu khẩn. Ngài thi vị hóa họa đồ với rất nhiều lời và nét đặc sắc, như thể ngài đã nhìn thấy thực sự. Người hoạ sĩ bảo với ngài rằng trong một khoảng nhỏ như thế không thể vẽ được từng đó các nhân vật; nhưng ý tưởng của Don Bosco và cách ngài trình bày cho thấy ngài muốn đó là một chủ đề suy niệm, và phải diễn tả sự thân thiết của một người sùng mộ và cổ võ không mệt mỏi cho vinh quang của Mẹ.
Chú thích
39 2 Cor 3, 2-3.
40 Trong cuốn Cattolico Provedutto, viết theo sự gợi ý của Don Bosco, người ta đọc thấy giữa những phương thức để giữ được ánh sáng của sự Hiệp lễ: “Hãy lưu tâm để đừng đánh mất sự điềm tĩnh trong tinh thần, không có nó người ta chẳng có thể tốt. Để gìn giữ nó, cần phải kết hợp chặt chẽ với Thiên Chúa” (p. 507, ediz. 1888). Một tác giả nổi tiếng hiện nay nhận xét: “Người thường xuyên lo lắng và qúa chìm trong công việc, linh hồn người đó khó mà mở ra được” (R. Plus, Irradiare il Cristo. Marietti Torino, p. 29).
41 Mat 6, 22.
42 I Cor 10, 31.
43 [43] Luc 19, 10.
44 De cael. Hier., 3.
45 Tv 125, 6.
46 Tanquerey, Tổng lược về thần học tu đức và thần bí, n. 611. Desclée, Roma.
47 Tđcv 17, 16.
48 Maria, sự quan phòng và sự cứu giúp của những kẻ kêu cầu Người. Phụ lục I của báo Letture Cattoliche tháng 5 năm 1865, tựa đề Lịch sử của Tòa Điều Tra (Inquisizione).
49 Letture Cattoliche, Phụ lục II.
50 Tv 120, 1.