Chương VI. Nơi ổn định để thực hiện sứ mạng

Ngày nay khi nói đến Nguyện xá là đề cập đến một cơ sở rất phổ biến ở Ý đến độ người ta nghĩ dường như vẫn như thế từ xưa, không cảm thấy nhu cầu tìm hiểu xem với ai Nguyện xá đạt tới tầm mức của nó. Tên tuổi của Don Bosco không tách rời với một Nguyện xá, một Nguyện xá trổi vượt, Nguyện xá Valdocco.

Chính sự quan phòng nhiệm mầu của Thiên Chúa đã khiến cho trung tâm chính của các công cuộc Don Bosco mang cái tên Nguyện xá vì nó cho thấy nơi chốn để cầu nguyện. Một nơi chốn thì được định nghĩa bởi điều chính yếu mà người ta làm tại đó; nếu một nơi có nhiều hoạt động mà lại mang tên nơi chốn cầu nguyện, thì có nghĩa là trong các công cuộc của Don Bosco, trước hết phải có sự cầu nguyện rồi mới nói tới những việc khác. Chính những lời của Don Bosco hằng nhắc nhở cho chúng ta điều này.

Thực ra vào buổi đầu không thiếu những người tốt bàn tán có sự thích hợp không vì có quá nhiều các cử hành thánh và các thực hành đạo đức được đưa vào Nguyện xá. Don Bosco đã làm cho tất cả phải im miệng, ngài luôn trả lời bằng một câu: “Tôi đã đặt tên Nguyện xá cho nhà này để chỉ rõ, cầu nguyện chính là năng lực độc nhất, dựa trên đó chúng ta phải đặt sự trông cậy”.

Và người ta có thể cảm thấy được lòng đạo đức trong không khí tại Nguyện xá; lòng đạo đức đọc thấy được nơi khuôn mặt của các thanh thiếu niên; lòng đạo đức thúc bách trong mọi người và trong mọi việc. Mục tiêu của chúng ta dù không phải là bàn về điều này, chúng ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng ở đó phản chiếu chính tâm hồn linh mục của Don Bosco. Trong Giáo hội, một linh mục nhiều tinh thần sáng kiến có thể tổ chức để nặn ra rất tốt một cái tượng đất; nhưng nếu không có tinh thần cầu nguyện thì không thể thổi vào đó hơi thở sự sống.34 Nếu không có người khác bù đắp sửa chữa cho cái khiếm khuyết ấy, thì những tổ chức như vậy chẳng bao giờ sống động được.

Đối với Don Bosco, Thiên Chúa chính là nguyên lý và đích điểm của mọi sự. Bận rộn với bao thứ việc, ngài không bao giờ để lâu giờ mà không cầu nguyện; mẹ ngài, ngủ ở phòng gần phòng ngài, cho biết rằng ngài thức một phần trong đêm để cầu nguyện. Trên lối vào căn phòng nhỏ bé của ngài có một tấm bảng như để mời ngài nói: ngợi khen Chúa Giêsu Kitô; phía trong có một tấm bảng khác trên tường nhắc nhở ngài chỉ một điều cần thiết, cứu rỗi các linh hồn; một tấm bảng thứ ba làm sống lại châm ngôn thân thiết của thánh Phanxicô Salê mà ngài áp dụng cho mình ngay từ những năm đầu đời linh mục: Da mihi animas catera tolle.

Những thao thức và mong ước về phần rỗi đời đời của mình và của người khác luôn luôn thường hằng trong ngài. Người ta phải nói gì về những biểu lộ của lòng đạo đức trong tâm hồn ngài: sự kính trọng, tình yêu và sự tôn kính đối với mỗi hành vi thờ phượng, đối với mỗi việc sùng kính được Giáo hội phê chuẩn và cổ võ? Các việc như á bí tích, làm các phận vụ thánh, đọc kinh Mân Côi chung, các hiệp hội đạo đức, đọc kinh Truyền Tin, đọc kinh trước khi ăn, đi đàng Thánh Giá. Biết bao sùng kính ngài đã nuôi dưỡng đối với các mầu nhiệm của sự thương khó và sự chết của Chúa Giêsu! Ngài suy niệm các nỗi đau đớn của Chúa với một tâm tình sống động. Khi diễn giảng ngài xúc động, lời của ngài không thốt ra được và khiến người nghe bật khóc.

Về các hội đạo đức, người ta không thể nói đến điều này sau khi ngài đã có được chỗ ở ổn định tại Valdocco, ngài ghi tên vào hội dòng ba Phanxicô, mang áo, làm nhà tập và khấn. Ngoài ra, trước mắt quan sát của mọi người, họ thấy một linh mục đạo hạnh mẫu mực, ngài đọc lớn tiếng, phát âm với giọng rung động hòa điệu, khiến người ta nghĩ ngay đến ngọn lửa bác ái trong tâm hồn ngài. Bởi thế một nhà thơ tí hon vào năm 1846 khi làm mấy câu thơ để phổ nhạc mừng Don Bosco khi ngài trở về sau cơn trọng bệnh, diễn tả cái tâm tình chung vào ngày ngài trở lại Nguyện Xá “người khôn ngoan, người đạo đức, người nhân đức”.

Bên cạnh ban hát lúc đó, sau này còn có nhiều tường trình của nhiều chứng nhân tận mắt đáng tin cậy. Don Bosco còn phải trải qua nhiều năm khó khăn nữa: làm sao để cho Nguyện xá ngày lễ của bảy trăm thanh thiếu niên có thể tiếp tục được; mở thêm hai nơi nữa ở Torino; mở các nhà trọ; mở cửa cho các chủng sinh nghèo bị giải thể vì lệnh đóng cửa các chủng viện, khiến cho căn nhà nhỏ của ngài đầy tới mức không tưởng tượng được; giải quyết bánh ăn hằng ngày; hoặch định nền móng cho Hội dòng tương lai; giữa những xáo trộn chính trị làm đau đầu thẩm quyền các cấp của Giáo hội, tinh thần phúc âm cao độ, ngài chia sẻ những lo âu của các Mục tử,…: tất cả những điều này từ sáng tới tối làm Don Bosco ở trong sự bất ổn và đầu của ngài dưới sức ép trở nên giống như một nồi nước sôi.

Một linh mục đáng kính nọ ở gần Don Bosco, khi nhìn thấy ngài như thế, đã nói rằng toàn thân Don Bosco toát ra cái ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, khiến người ta cảm nhận lời của thánh Phaolô: quê hương chúng ta ở trên trời. Ở mọi nơi, ngay cả ở bàn cơm và trong phòng riêng, người ta nhìn thấy ngài trong một thái độ thu tâm, đầu hơi cúi xuống, giống như khi ở trước Thánh Thể hay trước sự hiện diện của một nhân vật lớn. Người ta cũng thấy ngài trên đường đi cũng trong vẻ tập trung, nhưng sự chú tâm vào Thiên Chúa. Chính điều này làm chúng ta nghĩ tới khi thỉnh thoảng có kẻ đến xin ngài lời khuyên, dường như lúc đó ngài đang chia trí về cái gì đó hoàn toàn khác, ngài trả lời như một người đang chìm trong suy niệm về những sự vĩnh cửu.

Nhân chứng thứ hai, từng sống dưới sự hướng dẫn của Don Bosco trong những năm tháng đầu tiên của Nguyện xá. Quan sát Don Bosco khi cầu nguyện chung với các bạn trẻ, nêu lên rằng ngài phát ra lời kinh lạy Cha chúng con ở trên trời với tất cả sự cảm nếm, và giọng ngài nổi lên giữa tất cả với một cung giọng không tả được, làm xúc động người nghe. Dẫu rằng thái độ của ngài không làm ra vẻ gì khác thường, nhưng cũng không trốn tránh được con mắt của người chứng. Dù là trong phòng thánh hay trong nhà thờ ngài không bao giờ chống khuỷu tay, nhưng dựa cánh tay vào ghế hay bàn qùi, đôi tay chắp lại hoặc cầm một cuốn sách trong lòng bàn tay. Cả đến nhà luân lý học nổi tiếng, monsignor Bertagna cũng không thể quên được cử chỉ của ngài khi cầu nguyện, đến nỗi, khi muốn đưa ra một ý tưởng ngắn gọn chính xác, ông nói rằng Don Bosco khi cầu nguyện có “thái độ của thiên thần”.

Chúng ta không quan tâm đến dáng diệu bên ngoài của Don Bosco, nhưng từ những gì trình bày cho tới đây, cũng đủ giúp cho hiểu tinh thần cầu nguyện của ngài mà không cần thêm vào nhận xét nào. Các tác giả và mấy nhà vẽ kiểu thường tưởng tượng qúa mức vào tuổi thơ ấu, vào những nét bên ngoài của các Đầy tớ Chúa; như thế có một Don Bosco được nấu thành mứt ngọt ngào. Như đã thấy, chúng ta không cho phép nhìn một Don Bosco như thế; hơn nữa càng không thể tìm thấy một Don Bosco thực sự dưới dáng vẻ như thế.

Một con người sâu xa cũng đồng thời là vị đại thánh thì biết mỉn cười. Tuy nhiên không phải cái cười theo bản năng tự nhiên, vô nghĩa, đó là cái mỉn cười có ý và chứa đựng trong đó sự suy tư: một nụ cười hướng tới một mục tiêu, và biết rút lui vừa khi đạt tới mục tiêu. Nơi vị thánh, lòng tốt dịu dàng và đáng yêu không bao giờ tách rời khỏi tính bình tĩnh và thanh thản. Sự tốt lành và bình thản, yếu tố lưỡng cực này tạo nên một dấu hữu hình và hầu như một chứng cớ về sự hiện diện của Tạo hóa bên trong tạo vật. Vì thế, cái nhìn về một vị thánh thì nâng cao và làm người ta suy nghĩ.

Về Don Bosco, quả thật, người ta cũng nói tới một lưỡng cực, tuy nhiên kiểu nói này không còn chỗ đứng; vì thực ra cái này là chị em ruột với cái kia, nên không thể giảm lược lưỡng cực này theo nghĩa trong tự điển; chúng ta nên gọi đó là sự đơn sơ phúc âm, sự đơn sơ của có nói có, không nói không, được thêm gia vị là đức ái, nhưng luôn luôn vững mạnh. Con người mà bên trong nội tâm tương giao với Thiên Chúa sẽ phản chiếu trong cách cư xử của mình một sự bình an sâu xa. Điều này tỏ rõ nơi Don Bosco đối với bất cứ ai khảo sát các biểu lộ của nhân cách ngài.

Tương tự với cách cư xử là cách nói của ngài. Luôn luôn trao đổi với sự bình tĩnh, thong thả, xa tránh các thứ diễn từ phàm tục, tránh kiểu nói qúa phấn khích, kiểu diễn tả gây chú ý và khiêu khích, đồng thời luôn đặt tầm quan trọng cho từng lời nói ra. Một người đã từng sống trong gia đình, trong sự thân tình với người của Thiên Chúa viết rằng: “Chúng tôi thường nói với nhau: “Đến gần Don Bosco thật là thích! Nếu bạn nói với ngài một chút thôi, bạn sẽ cảm thấy hăng hái ngay”.

Nhưng chúng ta có một chứng từ khác còn giá trị hơn nhiều. Đó là của Đầy tớ Chúa Michele Rua, người đã nói trong án phong thánh: “Tôi đã sống cạnh Don Bosco trong ba mươi bẩy năm…  Tôi thật cảm thấy bị ấn tượng khi quan sát Don Bosco đang khi làm việc, ngay cả những việc nhỏ, đọc và suy gẫm bất cứ cuốn sách đạo đức nào”.

Đối với người có kiên nhẫn để đọc sách, họ không phải không thích đi đây kia một chút, nhưng chỉ khi có lý do. Tôi muốn trình bày ở đây một trích dẫn đáng chú ý, mà sẽ cho phép chúng ta dựa trên vài điểm nào đó bên ngoài của Don Bosco để khẳng định về cái bên trong của ngài. Và nếu có cách nào trực tiếp hơn để biết về ngài, có lẽ ai mà chẳng muốn làm điều đó? Thánh Vicente Phaolo trong một bài giảng ngắn và đẹp cho các tu sĩ Truyền giáo của ngài đã nhận xét: “Ngay cả khi các con không nói một lời, nếu các con thực sự ở trong Thiên Chúa, các con sẽ tác động vào trái tim người ta bằng chính sự hiện diện của các con… Các tôi tớ của Thiên Chúa có một vẻ bên ngoài phân biệt với những con người xác thịt. Đó là một thái độ khiêm tốn, tập trung và sốt sắng, những điều này tác động trên linh hồn của người nhìn vào họ. Ở đây có những người lòng tràn đầy Thiên Chúa, mà mỗi khi nhìn họ cha không khi nào không bị đánh động. Các hoạ sĩ khi vẽ hình các thánh, trình bày họ với các tia sáng: thực thế những ngừơi công chính, sống thánh thiện trên mặt đất này, toả chiếu quanh họ thứ ánh sáng riêng của mình”.35

Và cả nhà viết tiểu sử thánh Bonaventura, sau khi nói rằng “chúng ta thiếu những thông tin để biết về sự tiến bộ của ngài trong kinh nguyện và trong ơn chiêm niệm” đã chuyển sang cứu xét “các hoa trái của đời sống nội tâm và sự kết hiệp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa” đã đưa ra nhận định rằng: “Cuộc sống của thánh nhân ghi dấu của một sự bình an sâu thẳm, của ân sủng mà lôi kéo bất cứ ai nhìn ngài”. Khi nói điều này, tác giả đưa ra chứng từ của một người đồng thời, người mà khi nói về công đồng Lion nơi thánh nhân toả lan ánh sáng thiên thần sốt mến. Ông viết: “Chúa đã ban cho ngài ân huệ này, là tất cả những ai nhìn ngài đều cảm thấy yêu mến thân thiết với ngài”. Ở đây có lẽ câu nói này chỉ cần đổi tên là đủ đối với Don Bosco.

Vị thánh chuyên giảng tĩnh tâm cho các thầy sắp chịu chức và cho các linh mục cũng cho chúng ta biết về Don Bosco như là một người ngưỡng mộ việc thực hành của thánh Ignatio. Don Bosco yêu thích các buổi linh thao: ngài yêu thích vì ích lợi của người khác và của chính mình. Là người mở đường, năm 1847 ngài mở các khóa tĩnh tâm nội trú cho giới trẻ lao động; đưa vào trong các nhà nội trú Salediêng thói quen làm một tuần tĩnh tâm chuẩn bị lễ Phục Sinh, được chuẩn bị rất kỹ càng với những bài giảng và kết thúc trong niềm vui thánh thiện; trong Hội dòng ngài, ngài cũng tổ chức không kém gì các đấng sáng lập khác. Ngài là người cổ võ hăng say, và chính ngài cũng thực hành nữa.

Bao lâu hoàn cảnh không ngăn cản, hằng năm ngài tới đền thánh Ignatio thuộc Lanzo Torino nằm trong vùng núi alpine, nơi đây trong cô tịch và bình an của các ngọn núi, ngài bồi dưỡng tinh thần trong kinh nguyện và suy gẫm về những chân lý vĩnh cửu. Trong một tờ giấy mà ngài giữ rất cẩn thận, chúng ta xúc động khi đọc “những quyết định của tuần tĩnh tâm 1847” như sau:

Mỗi ngày: viếng Mình Thánh Chúa.

Mỗi tuần: một hy sinh và xưng tội.

Mỗi tháng: đọc kinh dọn mình chết lành

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con điều Chúa truyền,
và hãy truyền cho con điều Chúa muốn.

Linh mục là bình hương của Thiên Chúa (Teodoto).

Là lính của Chúa Kitô (thánh Gioan Crisotomo).

Kinh nguyện đối với linh mục thì giống như nước đối với cá,
không khí đối với chim, nguồn nước đối với nai rừng.

Người cầu nguyện thi giống như người đi gặp Đức Vua.

Chúng ta đã xem lần thứ ba các quyết định của Don Bosco liên quan đến đời sống cầu nguyện, dù biết rằng từ cái nói đến cái làm cách xa nhau như biển cả. Tuy nhiên cần lưu tâm hiểu cho đúng tính tình của Don Bosco. Don Bosco không phải là người thiên về lý trí, cũng không phải là người duy xúc cảm; ngài là người của ý chí, xuất phát từ những ý tưởng rõ ràng và những tình cảm trong sáng. Tương tự như những người có chí khí, vững chãi và mạnh mẽ, khi nào họ muốn là muốn. Không như những người thích trình diễn, những giải pháp của họ chỉ bay bổng trên không trung; không như những người xúc cảm, có giải pháp nhưng không bao giờ có thể giải quyết được chuyện gì, bởi vì các ấn tượng cũng thay đổi như lông chim trước gió. Don Bosco khác hẳn, ngài có một ý chí bằng sắt.

Giờ đây lại xảy ra một vấn đề khác. Nhìn nhận rằng sự làm chủ bản thân là đặc điểm của những con người sống theo ý chí, vậy thì giải thích ra sao khi người ta nhìn thấy Don Bosco khóc không ít lần? Ngài đã khóc khi dâng lễ, khi trao Mình Thánh Chúa, khi ban phép lành cho dân chúng sau nghi thức thánh; ngài khóc khi nói cho thanh thiếu niên sau giờ đọc kinh tối, khi ban huấn đức cho những người cộng tác với ngài và khi ban những kỷ niệm tuần tĩnh tâm; ngài khóc khi nói về tội, về gương xấu, về sự tiết độ, khi nói về sự vô ơn của con người trước tình yêu của Chúa Giêsu và khi bày tỏ nỗi lo lắng cho phần rỗi đời đời của một ai đó.

Một chứng nhân đáng tin cậy khác, hồng y Cagliero nói: “Khi Don Bosco giảng về tình yêu của Thiên Chúa, về sự hư mất của các linh hồn, về sự thương khó của Chúa Giêsu trong ngày thứ sáu tuần thánh, về bí tích Thánh Thể, về sự chết lành và niềm cậy trông thiên đàng, tôi nhìn thấy nhiều lần, cả các bạn tôi cũng thấy, ngài khóc vì tình yêu, khóc vì đau đớn, khóc vì vui; và rung động khi nói về Đức Trinh Nữ rất thánh, về lòng nhân lành và về sự trinh khiết vô nhiễm của Mẹ”. Cả trong những nhà thờ công cũng xảy ra cho ngài như thế. Một chứng nhân đã thấy ngài bị ngừng lại vì khóc tại đền thánh Đức Mẹ An Ủi khi giảng về phán xét chung, đang khi nói về sự phân tách kẻ vị nguyền rủa khỏi những người được chọn; chứng nhân thứ hai cho hay thấy ngài khóc nhiều lần nhất là khi nói về đời sống vĩnh cửu, đến độ làm cho những kẻ tội lỗi cứng đầu phải hối cải, tìm đến ngài xưng tội sau khi nghe giảng.

Cuối cùng, người viết tiểu sử tinh thông về Don Bosco nói: “Chính chúng tôi, những người viết những trang này, chúng tôi là nhân chứng cùng với hàng ngàn người khác về ân huệ thần linh mà Don Bosco đã được ban, từ lúc ngài lập nên Nguyện xá, mà ngay cả trước đó nữa, và kéo dài cho tới khi ngài qua đời”.36 Vấn đề là nếu như đó thực sự là tặng ân thần linh và trong trường hợp xác quyết như thế, nó có cho phép chúng ta khẳng định rằng Don Bosco có ơn cầu nguyện thụ động này không. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau, bây giờ chúng ta giới hạn trong những hoàn cảnh vừa kể trên để nêu lên rằng, việc Don Bosco khóc là một biểu lộ sự kết hiệp với Thiên Chúa; và bởi vì kết hợp với Thiên Chúa chính là cầu nguyện, người ta nhận thấy tinh thần cầu nguyện chắc chắn thúc đẩy Don Bosco ngày thêm hăng hái trong hoạt động.

Phần sức mạnh trong đường tu đức của Don Bosco chính là nơi Thánh Thể mà suốt cả đời ngài yêu mến, đó cũng là đối tượng vĩnh hằng của lòng nhiệt thành linh mục của ngài. Một ngày qủa tràn đầy niềm vui khi vua trời ngự trị trong Nguyện xá của ngài. Đó là ngày của ân sủng trong năm 1852 sau khi dựng được nhà thờ kính thánh Phanxicô Salê. Từ lúc đó căn nhà thánh thiêng này trở thành trung tâm của tất cả mọi tâm tình của ngài. Người ta không thể tả được niềm vui khi ngài loan báo cho học sinh tin vui này. Từ đó trở đi mỗi khi được nghỉ để hít thở một chút, ngài liền vào nhà thờ để thờ lạy Chúa Cứu Thế, và ở trong đó với dáng điệu của một thiên thần hơn là của một con người.

Tất cả những gì liên quan đến tôn thờ Thiên Chúa, ngài đặt tầm quan trọng tối thượng, luôn luôn quan tâm đòi hỏi để cho các đồ thánh luôn sạch và thứ tự; luôn để tâm sao cho đèn nhà tạm luôn luôn cháy sáng; luôn nhắc nhở mọi người suy nghĩ đến Đấng ở trong nhà tạm; ngay cả thích quét màng nhên, quét bụi bàn thờ, quét sàn nhà thờ, lau chùi chân bàn thờ. Chẳng có gì cần thiết để trang hoàng xứng đáng cho các cử hành thánh mà ngài lơ là; trong những ngày lễ trọng, ngài không muốn các nhạc sĩ đời, vì họ không quen với nhà Thiên Chúa, họ không đủ kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người viết tiểu sử ngài viết rằng trong nhà thờ người ta nhìn thấy đức tin và đức mến hiện trên khuôn mặt của ngài.

Cầu nguyện thế nào thì cử hành thế ấy? Ngài cử hành thánh lễ  trong thái độ sốt sắng, tập trung và chính xác, đọc từng lời với sự rõ ràng và trang trọng, tỏ ra sung sướng khi phân phát Mình Máu Thánh Chúa, không dấu nổi sự hăng say trong tâm hồn mình. Tuy nhiên ngài không gỉa tạo bày trò trước mắt: không kéo dài lê thê mà cũng không làm cho mau chóng, từ đầu đến cuối ngài tiến hành trong sự bình thản và tự nhiên trong mọi cử chỉ. Những tín hữu dù không quen biết ngài cũng đều thấy sốt sắng; còn những người đã biết, thì nơi đâu ngài sẽ cừ hành, họ tìm đến tham dự; các gia đình có đặc ân có nhà nguyện trong nhà, họ tranh nhau để mời ngài đến cử hành thánh lễ.

Nhiều lần ngài trở lại qùy gối trước bàn thờ nơi ngài cử hành thánh lễ đầu tiên trong nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, thuộc về Học viện giáo sĩ, để canh tân những quyết định khi chịu chức. Người ta còn lưu giữ bản Rubricae missalis cũ kỹ, mà ngài thường đem theo mình để sử dụng; có khi ngài cũng xin những người gần gũi với ngài vốn hay để ý lúc ngài cử hành lễ, xin họ canh chừng phòng khi ngài bị té.

Buổi sáng khi đi từ phòng ra nhà thờ, nếu gặp ai đó chào ngài và hôn tay ngài, ngài đáp lại bằng một nụ cười, nhưng ngài không nói gì cả, ngài hoàn hoàn để tâm vào thánh lễ sắp cử hành. Khi phải du hành, ngài cũng không bỏ qua thánh lễ, ngài rút ngắn giờ nghỉ, cử hành lễ vào sáng sớm; hoặc khi vì quá bất tiện, ngài cử hành vào lúc rất muộn. Đó là điều mà các Salêdiêng thế hệ đầu tiên đã nhìn thấy nơi ngài và chúng ta cũng đã tìm hiểu.

Trong đời sống thiêng liêng, trái tim của Don Bosco, do được đào tạo trong tình yêu nung nấu và vững bền đối với Thánh Thể, tự nhiên ngài trở thành vị tông đồ cổ võ lãnh Thánh Thể thường xuyên. Sứ mạng thánh này ngài đã thực hiện với biết bao nhiệt thành.

Ảnh hưởng giansenist khi đó còn phủ bóng tại Piemonte. Tuy nhiên trong Học viện giáo sĩ người ta cung ứng một giáo lý lành mạnh, nhắm tẩy trừ ảnh hưởng này khỏi tâm trí của các giáo sĩ; nhưng cánh đồng truyền giáo này có lẽ sẽ phải tiếp tục lâu dài nếu đã không có Don Bosco. Ngài hành động nhưng không gây nên tranh luận. Cách cá nhân ngài đã giải quyết được vấn đề về sự thường xuyên rước lễ, thừa tác vụ của ngài phản chiếu một suy tư rõ ràng về vấn đề này.

Đoạn văn sau đây trong “Hồi sử” để lại cho chúng ấn tượng: “Bắt đầu năm thứ hai triết học, một ngày nọ đi viếng Mình Thánh Chúa và không có sách kinh, tôi liền đọc cuốn Gương Chúa Giêsu, đọc mấy mục về Bí tích Thánh Thể”. Tôi bị đánh động bởi “sự cao vời của các suy tư” và bởi “sự sáng sủa cũng như do thứ tự và lưu loát trong cách trình bày những chân lý vĩ đại”, từ đó ngài say mê cuốn sách vàng này, và cuốn sách trở thành một trong những bài đọc được ưa chuộng của ngài.

Ngài đọc đi đọc lại phần nói về Bí tích trên bàn thờ, nhất là tiết thứ hai của mục thứ mười, trong đó đang khi biết rõ đâu là các hiệu quả của việc rước lễ, tác giả coi như là kẻ thù, việc tỏ ra điệu bộ để lôi kéo các tín hữu và các người đạo đức, tức là không chỉ các tín hữu đơn sơ, mà cả những linh hồn đạo đức và thánh hiến cho Thiên Chúa.

Quả là tai họa lâu đời cho Giáo hội, ngài tự nói với mình, thứ bệnh dịch giả hình của ma qủy! Còn hơn nữa, say sưa với sự ngọt ngào của cuốn sách, nó biến thành sự sống của ngài, khiến ngài khao khát trở thành người truyền bá việc rước lễ cho giới trẻ trên khắp thế giới. Ngài muốn truyền bá Thánh Thể giữa giới trẻ; và để không xây dựng uổng công, cần phải đưa giới trẻ từ những hoạt động đến với bàn tiệc Thánh Thể, đưa càng nhiều giới trẻ và càng thường xuyên càng tốt, đồng thời phải làm cho dân chúng quen nhìn thấy lối thực hành này. Và Don Bosco đã thực hiện điều này.

Gặp nhiều phê bình nhận xét từ nhiều người, nhưng Don Bosco không mất thời giờ để tranh cãi với họ. Ngài chuẩn bị lớp lớp những trẻ em rước lễ lần đầu, gia tăng cho rước lễ ngày thường, lập các hiệp hội với mục đích làm cho các thành viên có thói quen rước thường xuyên hằng ngày, và ngài dành biết bao giờ để giải tội cho các nhóm rước lễ này. Chỉ mình Chúa mới biết được mức độ hy sinh của Don Bosco để cổ võ một cách hiệu lực các thiếu niên tới bàn thánh thường xuyên. Ngài đã cảm nghiệm được niềm vui trào dâng khi nhìn thấy những hàng dài bất tận thiếu niên tới bàn thánh rước lễ. Một người sống tinh thần yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể còn có được niềm vui nào lớn hơn điều này chăng?

Chương này còn sẽ thiếu một yếu tố quan trọng, nếu chúng ta không bàn đến cách thức Don Bosco giải tội trong những năm này. Trong đời sống thiêng liêng, việc chọn một vị giải tội tốt là điều kiện thông thường để có thể tiến bộ.

Thánh Bernardo giải thích điều này khi nói: lấy chính mình làm thầy dạy mình là tự biến mình thành đồ đệ của một kẻ ngu ngốc. Vị thánh tiến sĩ viết không phải cho một tập sinh, nhưng cho một giáo sĩ; còn hơn nữa, ngay trong bức thư đó ngài khẳng định giáo thuyết này bằng chính kinh nghiệm của mình: “Tôi không biết người khác nghĩ gì về chính mình trong vấn đề này; tôi nói dựa theo kinh nghiệm, tôi thấy an tâm và dễ dàng khi phải ra lệnh cho người khác hơn là khi phải hướng dẫn chính mình”.37

Cha Scaramelli, một bậc thầy về hướng dẫn thiêng liêng, dựa vào thẩm quyền của thánh Basilio, khẳng định rằng: “sau cái khao khát đầu tiên sống trọn lành và sau những quyết định làm ra để theo đuổi, phương thế cần thiết nhất để có những tiến bộ trong hành trình thiêng liêng đó là việc chọn một vị hướng dẫn tốt”.38

Don Bosco đã từ lâu tỏ ra hiểu sự cần thiết này, nên khi vừa chuyển đến ở Torino, ngài đặt mình dưới sự hướng dẫn của chân phước Cafasso, hằng tuần đi bàn hỏi với ngài. Don Bosco tìm ngài ở trong nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, tại tòa giải tội, nơi các hối nhân đợi phiên mình. Qùy gối xuống đất gần một cái cột, dọn mình, đợi để cha giải tội thấy mình. Cha giải tội không để Don Bosco không phải đợi lâu, ngài vén màn lên, ra hiệu; và Don Bosco trong cử chỉ hơi cúi đầu và đạo đức tiến lại tòa giải tội, quì gối, xưng tội trước sự hiện diện của nhiều hối nhân khác. Qủa là một thầy và một đồ đệ thánh thiện.


Chú thích

34 Sáng thế 2, 7.

35 Ant. Redire, Đời sống thánh Vicente Phaolô, p. 242-3, Brescia, Morcellinana, 1928.

36 Lemoyne, L. c., vol. IV, pp. 307-8.

37 Epist. LXXXVII, 7.

38 Direttorio ascetico, tratt. I, n. 92.

Chương V. Giai đoạn hai trong sứ mạngChương VII. Thời kỳ sáng lập