Chương V. Giai đoạn hai trong sứ mạng
Trong chủng viện Don Bosco may mắn quen biết được Don Borel, một nhà thần học ở Torino khi ngài đến để giảng tĩnh tâm. Don Bosco viết: “Ngài xuất hiện trong phòng thánh với nét vui tươi và lời nói khôi hài, nhưng luôn mang những suy tư đạo đức”. Như người ta nói, ước gì cái ấn tượng đầu tiên đúng; có lẽ thường không luôn luôn được như thế bởi vì có nhiều yếu tố chủ quan ở trong ấn tượng; nhưng cái ấn tượng hôm ấy thì rất đúng và tuyệt đẹp. Vị linh mục tỏ ra đúng là linh mục, nghĩa là người lo việc Thiên Chúa; đây chính là điểm người ta nhận ra ngài, hoặc linh mục là người có lòng đạo đức hay chỉ là một kẻ khốn khổ làm việc theo thói quen.
Thầy Bosco khi quan sát ngài “chuẩn bị và cám ơn sau thánh lễ, cử chỉ và sự sốt sắng khi cử hành”, nhận thấy ngay “lập tức” đó là “thừa tác viên xứng đáng của Thiên Chúa”. Đáng chú ý từ ngữ “lập tức” vốn làm chúng ta nghĩ ngay tới sự nhậy bén. Trong vấn đề đạo đức, thầy Bosco luôn là người hiểu nhanh nhậy. Khi nghe ngài giảng, thầy nhận định ngay qủa là “một vị thánh”; thế nên thầy muốn “tâm sự với ngài những việc linh hồn”. Vậy thầy muốn gì? Thầy muốn không chỉ xưng tội, nhưng muốn giãi bày, muốn có các cuộc đàm thoại thân mật và quan trọng với ngài; những cuộc đàm thoại này liên quan tới chuyện linh hồn, nghĩa là các nhu cầu của đời sống thiêng liêng.
Kỷ niệm của cuộc tĩnh tâm đó còn mãi sâu đậm trong tâm trí Don Bosco, đến độ ba năm tại Học viện giáo sĩ ngài cảm thấy hạnh phúc mỗi lần có dịp trao đổi với vị linh mục mẫu mực đó. Về phần mình, hiểu rõ Bosco, ngài sung suớng mời giúp ngài trong các phận vụ thánh, đi giải tội và giảng cùng với ngài: do lòng nhiệt thành vượt bực của ngài, những lần mời như thế không phải ít, gây nên cho thầy không ít lo lắng, khiến cho các đồng nghiệp của ngài gọi thầy là “lính biệt động của Giáo hội”. Họ trở thành hai tâm hồn sinh ra để thông hiểu lẫn nhau.
Don Bosco lúc này đã quen thân với nhà thần học và biết cả chỗ ở của ngài. Ngài gợi ý cho Don Bosco đến ở chỗ ngài. Điều này có nghĩa là đi khỏi Học viện giáo sĩ nơi đã ba năm sống tại đó. Một linh hồn thánh thiện khác, Don Cafasso, người cương quyết không cho Don Bosco đi khỏi Torino biết được ý tưởng hay đúng hơn sự gợi ý này.
Don Borel cư ngụ ở một nơi gọi là Khu ẩn náu (rifugio),33 cái tên mà người dân Torino gọi khu nhà ở do Barolo, một nữ bá tước rất độ lượng xây dựng; ở đó ngài làm giám đốc và làm linh hướng.
Với sự vâng phục như đứa con với người cha linh hồn, Don Bosco nhìn thấy trong lời khuyên của Don Cafasso sự tỏ lộ minh bạch của thánh ý Chúa, ngài để lại sau lưng mọi suy tính khác, chuyển Tổ chức đang lớn mạnh của ngài đến Khu ẩn náu.
Gọi là Tổ chức xem ra là một từ ngữ qúa lớn nếu người ta áp dụng nó vào khu vực ở nhỏ bé được cống hiến cho ngài; nhưng người ta sẽ không nghĩ như vậy nếu biết rằng vị chỉ huy của đạo quân thiếu niên ấy đã ở đây cả ba năm trời. Sau cùng chúng ta phải nói rằng hoàn cảnh của ngài lúc bấy giờ hoàn toàn được hình thành do lòng bác ái, điều mà thánh Phaolô trong chương mừơi ba nổi tiếng của thư thứ nhất Corintho, nói là nhân đức cao trọng nhất.
Những gì xảy ra tiếp theo đều là những cơ hội nhắc ngài về đức ái thì kiên nhẫn. Ba bốn trăm trẻ náo động đụng tới thần kinh bà bá tước, khiến một ngày nọ, chịu không nổi nữa, bà buộc lòng bảo ngài phải đem chúng ra ngoài, và thấy ngài không có ý định bỏ công việc của mình, bà ra hạn chót cùng với lời dọa thu hồi vĩnh viễn việc sử dụng cơ sở của bà. Bọn trẻ đụng tới nhu cầu sống bình yên và sự nhạy cảm của những người sống trong vùng nơi mà cứ liên tục mỗi Chúa nhật ngài tụ tập đám trẻ lang thang này. Chúng đụng đến quyền bính dân sự và chính trị khiến họ ra lệnh trục xuất, buộc ngài phải mau chóng rời khỏi và coi ngài như một kẻ gây nguy hiểm cho trật tự xã hội. Chúng đụng đến cơ cấu của các giáo xứ, gây nên mối lo ngại về các hệ quả có thể xảy ra. Sau cùng chúng đụng đến những người ít nhiều có các mối lợi, họ muốn đẩy các cuộc tụ tập của ngài tới một cánh đồng, xa khỏi khu vực sinh sống.
Lo lắng nhưng không bị đánh bại, chịu khốn cực mà không nao núng, ngài đối diện những thái độ thù nghịch với một tâm hồn mạnh mẽ anh hùng vốn là ân ban của Thánh Thần. Một sự vững mạnh có nguồn mạch siêu phàm làm cho con người sẵn sàng chờ đón mọi sự, đứng vững trước mọi người và không hề bị lung lay, đây chính là trường hợp mà người ta có thể nói đúng cho Don Bosco. Chắc hẳn đó không phải là niềm vui, nếu nói theo kiểu con người, khi phải trải qua các ngày Chúa nhật giữa đám trẻ dốt nát, ồn ào, lộn xộn, vô danh tiểu tốt và quê mùa; chẳng có gì hứng thú để dạy đám trẻ thô thiển, thiếu suy nghĩ và vô công rỗi nghề như ngài đang làm. Ngày nay ngay cả các trẻ em ở điều kiện thấp kém nhất, trong các ngày lễ cũng có một vẻ tươm tất sạch sẽ; nhưng lúc đó đám trẻ vô học và bẩn thỉu lang thang trên các đường phố và công viên của các khu dân cư trong thủ đô vùng Piemonte. Đúng ra người ta phải thán phục hay ủng hộ hoặc ít ra phải để cho Don Bosco được bình an với đám trẻ nghịch ngợm mà ngài tự xưng là thủ lĩnh của chúng; thế nhưng các công việc của Thiên Chúa lớn lên như trở thành cái bia cho cả thù địch cũng như bạn hữu. Don Bosco chịu đau khổ trong sự bình thản, ngước mắt nhìn lên trời mong chờ sự trợ giúp và an ủi; từ đó càng những lúc gặp nhiều khó khăn và phải chiến đấu dường như ngài lại càng có vẻ dịu dàng và dễ tính.
Sự vững mạnh của các thánh khác với sự mạnh mẽ, cứng cỏi và không uyển chuyển của các nhà khắc kỷ: các thánh tín thác vào sự trợ giúp siêu nhiên nên các ngài cầu nguyện, kiên nhẫn và chiến thắng. Sự vững chãi triết học thì khô cạn trong sự thỏa mãn cái tôi; sự vững mạnh Kytô giáo trái lại kích thích tài năng để tìm ra những con đường mới, dù có khiêm tốn và phải hạ mình, miễn là đạt tới mục đích đã nhắm, chẳng có tham vọng nào khác là hơn là làm vinh danh Thiên Chúa và lợi ích của tha nhân.
Đám trẻ Nguyện xá từ buổi đầu, vốn không bao giờ xa rời Don Bosco, luôn sống gần với ngài, vẫn còn giữ nguyên cái kỷ niệm thời đầu anh hùng hình ảnh một người cha đích thực, thân thiết và tốt lành. Thân thiết bởi vì tốt lành, nhưng đó là sự tốt lành của Phúc Âm khi mà một thanh niên hỏi Chúa Giêsu: Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời? Một con người trọn vẹn như Don Bosco, lòng nhân lành không có phải cái thứ nhạy cảm thường làm con người nên yếu đuối, lòng tốt của Don Bosco được soi chiếu bởi sự thông minh và bởi đức tin và thường hằng được đốt cháy bởi sự tiếp xúc với Thiên Chúa, nên đã biến đổi thành lòng nhân lành siêu nhiên, đối xử như nhau với mọi người và để nâng cao tất cả mọi người.
Đó là tại sao giữa những thăng trầm, vào buổi ban đầu người ta hiểu lờ mờ và chỉ mãi sau họ mới hiểu được những đau khổ trong tâm hồn của ngài. Người ta thấy ngài luôn luôn bình thản và yên bình, trở nên tất cả cho mọi người để làm lan tỏa một tình cảm tác động và một đường hướng thiêng liêng. Như thế ngài chiếm được tâm hồn các thanh thiếu niên, đến nỗi nơi đâu ngài ngồi giải tội là chúng quên hết những vị khác, tụ lại quanh ngài trong một sự hồn nhiên và lòng tín nhiệm. Thế mới hiểu vì sao, bị đuổi khỏi mảnh đất bao bởi các bức tường ra ngoài cánh đồng trong mùa đông ở Torino, các bạn trẻ vẫn trung thành đến với ngài, mang theo đồ ăn khô và lưu lại với ngài cho đến khi mặt trời lặn. Những em đầu tiên đó, khi đã lớn, nhớ lại những gì mình đã thấy, thốt lên: ngài là thiên thần ở giữa chúng tôi.
Lời nhận định đó gợi chúng ta nhớ tới thánh Stêphanô tử đạo tiên khởi, người mà sách Công vụ tông đồ kể rằng giữa những lời tố cáo trong toà án, những người có mặt ở đó nhìn thấy mặt ngài như diện mạo một thiên thần, tỏa chiếu sự thanh thản, bởi vì ngài đầy ân sủng và sức mạnh.
Cách hành xử lạ lùng của Don Bosco giữa những nỗi quẫn bách không có một nguồn mạch nào khác. Các đền thánh kính Đức Mẹ thuộc ngoại ô biết ngài rất rõ, ngài dẫn đám thanh thiếu niên lang thang đó đi hành hương cầu xin ơn lành với những lời kinh và các bí tích; đặc biệt đền thánh Đức Mẹ Yên Ủi, nơi đây bức ảnh hay làm phép lạ đã nghe biết bao lời cầu nguyện của Don Bosco và con cái ngài, và đã ban cho ngài sự can đảm. Nhà thần học Borel và một số chức sắc giáo sĩ biết ngài, họ làm chứng về lòng nhiệt thành đạo đức mà ngài đã tuôn đổ vào trong lòng của đám trẻ lang thang ấy. Một số các bạn trẻ yêu thích cầu nguyện cũng biết ngài và được ngài dẫn đi cùng cầu nguyện riêng một chỗ với ngài để cùng vươn tới một đời sống hoàn hảo hơn.
Đó là những điều cần phải gợi lại nếu muốn hiểu cho đầy đủ những lời này trong cuốn “Hồi sử”: “Thật lạ lùng, làm thế nào một đám đông lại để cho điều khiển, đám đông mà trước đó tôi chưa biết, một đám đông mà phần lớn người ta có thể nói đúng về chúng giống như ngựa và lừa không có trí khôn.
Tôi phải thêm rằng giữa cái sự vô tri như thế, tôi luôn phải thán phục sự kính trọng của chúng đối với những gì thuộc về Giáo hội, đối với các thừa tác viên, và có biết bao điều về giáo lý và luật Chúa mà chúng cần phải học hỏi”. Thật sự đối với những con lừa và ngựa điên thì không có gì là xấu cả! Nhưng người dạy dỗ và người thuần phục chúng có dư dật khả năng trí khôn, khả năng mà chúng chưa có nhưng sau đó chúng đã có. Giờ đây chúng ta mới hiểu tại sao chân phước Cafasso trả lời phản bác các cáo giác chống Don Bosco mà người ta trình cho ngài. Don Cafasso luôn kết thúc bằng điệp khúc “hãy để cho cha ấy làm, để cho cha ấy làm”.
Nhưng ngày Chúa nhật chỉ là một ngày trong tuần, con sáu ngày khác ra sao? Đừng có ai nghĩ rằng Nguyện Xá ngày lễ chỉ quan tâm tổ chức trong ngày Chúa nhật. Nguyện xá như trong ý nghĩ của Don Bosco, là nơi của thẩm quyền tình phụ tử, nơi chiếm lấy tâm hồn của thanh thiếu niên, theo chúng khắp mọi nơi và trực tiếp can thiệp với cha mẹ, chủ, thầy cô, bất cứ nơi nào có thể để đạt được một ảnh hưởng tốt trên cách sống của chúng. Vì thế Don Bosco dần dần có các nhà dòng, có các trường học, trường nội trú, có nhà in và có nhà tạm trú: một lãnh vực hoạt động rộng lớn không biên giới.
Các hoạt động đa dạng một cách tự nhiên khiến ngài có tương quan với mọi hạng người, nhiều trong số họ rất cần đến công cuộc và lời nói của ngài, họ gần như săn tìm ngài bất cứ nơi nào ngài cử hành nghi lễ thánh. Một trong những quyết định do ngài viết lại năm 1845 cho thấy điều này; chúng ta trích ra nơi đây không phải để làm công việc của một tiểu sử gia nhưng vì nó giúp soi sáng chúng ta. Ngài nói: “Khi tới phòng thánh người ta thường hay hỏi để xin lời khuyên hay để xin xưng tội, vì thế tôi sẽ lo để có một sự chuẩn bị ngắn trước khi đi cử hành thánh lễ”.
Ghi nhận quí gía và có ý nghĩa này, đang khi từ ngữ “ngắn” không có nghĩa vấn nạn lương tâm, cho chúng ta thấy Don Bosco thay vì nại cớ tiện lợi bỏ Chúa vì Chúa, ngài thích chuẩn bị trước một cách sốt sắng thích đáng.
Một số thẻ giấy mà ngài đã dùng kẹp sách trong bốn mươi năm cũng cho thấy những suy tư vốn thân thương với ngài. Mười một câu từ Kinh thánh nói về sự Quan phòng, sự tín thác nơi Thiên Chúa, sự tránh các dịp tội, sự không dính bén với của cải, niềm vui của một lương tâm trong sáng, sự độ lượng của Chúa dành cho những ai quảng đại, sự suy nghĩ trước khi nói, sự phán xét của Thiên Chúa, lòng thương người nghèo, sự tôn kính xứng hợp dành cho các người trên, sự tha thứ những xúc phạm.
Năm câu từ các giáo phụ nhắc nhở về sự duyệt xét lương tâm thường xuyên, sự gắn bó khiêm nhường và trọn vẹn đối với giáo huấn của Giáo hội, sự giữ những điều bí mật, sự hiệu quả của gương sáng, lòng nhiệt thành vì linh hồn của người khác và của linh hồn mình. Ba câu khác từ Dante ở cuối các bài thơ, đưa con người lên chốn của “các vì sao”, nghĩa là những suy tư về thiên đàng. Sau cùng bốn câu từ Silvio Pellico cũng đáng đề cập, vì chúng có giá trị nhắc nhở ngài về chính trị mà người của Thiên Chúa phải theo đuổi trong một thời buổi đầy dẫy những trào lưu chính trị: chính trị của Ý phải là chính trị của đức tin, đức cậy và đức mến: Người Ý hãy tin vào nhân đức cao cả, nhà nước hãy trông cậy nơi Thiên Chúa, và đang khi tin và trông cậy hãy yêu mến và tiến tới để chiếm lấy những gì chân thật vĩnh cửu.
Pellico và Don Bosco biết nhau rất rõ. Đối với Don Bosco nhà thơ đã sáng tác bài ca tụng tuyệt vời: Hỡi bé thơ của Thiên Chúa, và ngài nuôi dưỡng một sự kính trọng chân thành đối với ông. Là thư ký của bá tước Barolo, ông chắc hẳn biết rõ lá thư mà bà bá tước thông báo cho giám đốc của nhà Rifugio quyết định của bà về Don Bosco, trong đó bà lập lại các chữ mang tính ngoại giao cứng cỏi hoặc, hoặc mà bà đã thông tri cho ngài bằng miệng: hoặc bỏ Nguyện xá hoặc phải đi khỏi nhà Rifugio.
Lá thư dài, với chữ ký của một phu nữ qúi tộc, nhưng được soạn bởi lối văn đáng yêu của ông thư ký. Đoạn văn qúi giá sau đây qủa là một điểm soi sáng cho chúng ta: “ Tôi quí mến ngài (Don Bosco) ngay từ giây phút đầu tiên vì gặp thấy nơi ngài một vẻ cầu nguyện và một sự đơn sơ của các tâm hồn thánh thiện”. Người viết diễn tả sự phán đoán của người khác nhưng chắc hẳn tương hợp với phán đoán của ông.
Chú thích
33 Ngày nay tên này đã được đổi là “Istituto” (viện) thay cho cái tên Rifugio (nơi nương ẩn) có vẻ thấp hèn.