Chương III. Tại chủng viện
Chủng viện của tổng giáo phận Torino lúc bấy giờ đặt ở Chieri; Gioan Bosco vào đó ngày 30 tháng mười năm 1835 lúc hai mươi tuổi.
Là một người có óc quan sát và khôn ngoan, thầy chủng sinh trẻ thoáng nhìn đã có một ý tưởng chính xác về nơi chốn, con người và sự vật. Tại đây thầy chuyên chăm các thực hành đạo đức. Thầy dự thánh lễ, nguyện ngắm, lần chuỗi hằng ngày; xưng tội hằng tuần; rước lễ thì không được như ý vì chỉ được lãnh trong các ngày Chúa nhật và các lễ trọng.
Để rước lễ trong tuần cần phải phạm tội không vâng lời: thầy phải bỏ giờ điểm tâm và phải trốn đi qua cửa thông qua nhà thờ kế bên. Nhưng rồi vừa khi cám ơn xong, không còn nhiều giờ vì thầy phải đi học cùng với các thầy bạn; như thế cho tới giờ bữa trưa thầy chịu bụng đói. Sự phá luật này đã có thể bị cấm theo luật; thế nhưng các bề trên đã cho phép một cách im lặng, bởi vì họ hiểu rõ thầy và nhiều lần nhìn thấy nhưng họ không nói gì. Như thế thầy có thể tùy thích lãnh Thánh Thể mà thầy nói nhờ đó mà ơn gọi thầy được nuôi dưỡng.
Được nuôi bằng bánh các thiên thần, tinh thần Hội thánh của thầy chủng sinh được hình thành dưới ảnh hưởng dịu dàng của lòng sùng kính Mẹ Maria rất thánh. Thầy ghi sâu trong trí nhớ và trong lòng những lời của mẹ mình trước khi vào chủng viện.
Tuy là một người dân quê thất học, bà có một cảm thức về Chúa Kitô, Đấng là sự khôn ngoan từ trời, đồng thời bà có khả năng phán đoán một cách đúng đắn về những điều liên quan tới Chúa. Khả năng này người ta gặp thấy nơi nhiều tâm hồn đơn sơ, điều làm nhiều kẻ phàm tục sửng sốt, nhưng đối với những người hiểu về ơn huệ Chúa Thánh Thần thì không có gì ngạc nhiên.
thực vậy thầy Gioan, như ngài kể trong “Hồi Ký”, đã được mẹ yêu của thầy nhắn nhủ: “Khi con sinh ra, mẹ đã dâng hiến con cho Đức Trinh Nữ; khi con bắt đầu đi học, mẹ đã khuyên nhủ con tôn sùng Mẹ của chúng ta; bây giờ mẹ khuyên con hãy thuộc trọn về Người: hãy yêu mến những người yêu mến Mẹ Maria, và nếu con trở thành linh mục, con hãy khuyên nhủ và truyền bá lòng sùng kính Mẹ Maria”. Nhớ tới lời khuyên khôn ngoan của mẹ, thầy tìm làm bạn với “những người sùng kính Đức Trinh Nữ, chăm chỉ học hành và làm việc đạo đức”.
Nhiều người trong số các bạn này còn sống sau ngài, người thì làm chứng rằng thật khó mà cưỡng lại lời mời của thầy mời họ cùng thầy vào nhà thờ đọc kinh chiều hoặc một kinh gì khác kính Đức Mẹ, người thì làm chứng về lòng nhiệt thành của thầy để dịch và làm cho các bài ca về Đức Mẹ trở nên quen thuộc, người khác thì về sự dễ mến của thầy khi cử hành tôn vinh Mẹ bằng cách kể ra những mẫu chuyện có tính giáo huấn trong giờ chơi. Khi còn trong thời triết học cậu trân trọng cái lần đầu tiên được lên toà giảng nói về Đức Mẹ Mân Côi, bắt đầu cho biết bao bài giảng khác về Đức Mẹ vốn là niềm vui của thầy cho tới tuổi già.
Từ sau lần đó, Gioan Bosco, thầy tư giáo trẻ nhiều lần lên bục giảng: vì nhìn thấy nơi thầy sự chân thành, người ta chạy tới thầy trong khi gặp trường hợp cấp thiết trong mùa hè, thầy không tỏ ra khó chịu mà cũng không để người ta phải nài xin. Một sự kiện đáng ghi nhớ. Như một câu thời xưa nói rằng: mỗi người dễ đều nói hay về điều mình biết; một câu khác trái tim lên tiếng, như bổ túc cho câu thứ nhất, khả năng ăn nói xuất phát từ trái tim. Nơi thầy Bosco cả hai yếu tố này kết hợp với nhau và làm cho thầy trở thành nhà hùng biện thánh.
Trong số những quyết tâm khi mặc áo thầy ghi điều này: “Bởi vì trong qúa khứ tôi đã phục vụ thế gian khi đọc sách phàm tục, từ nay tôi sẽ chăm lo phục vụ Thiên Chúa bằng việc đọc những sách bàn về đạo giáo”. Về đạo giáo, vấn đề thiêng liêng dù không là khổ chế, đã không bao giờ bị lãng quên. Trong những năm trung học cậu đã đọc ngấu nghiến các tác giả Ý và Latin cổ điển để làm phong phú hiểu biết về văn chương và văn hóa đời, do sự nhạy cảm bởi một trí thông minh đối với tất cả những gì đẹp và lớn lao; trong chủng viện thay vào đó thầy lại tận dụng thời giờ để ngốn những tác phẩm dầy cộm về lịch sử Giáo hội, về giáo lý và hộ giáo.
Do có một trí nhớ tuyệt hảo, đối với thầy “đọc tức là sở hữu”; chính thầy đã công nhận điều đó. Mọi thứ đọc chỉ là một thứ thông thái khô cằn chết chóc không có gì ích lợi gì, nhưng trong linh hồn cháy lửa yêu mến Thiên Chúa thì đọc để “phục vụ Thiên Chúa”, những gì đã đọc sẽ biến thành sức nóng trong đức tin và lòng nhiệt thành. Nơi thầy sự hiểu biết về đạo giáo và về các thánh giúp thầy có nhiều thuận lợi; chẳng hạn lúc bất chợt phải giảng, thầy không bao giờ thiếu chất liệu cũng như sự nhiệt tình, chỉ cần một ít thời giờ để hồi tâm và cầu nguyện thầy đã cảm thấy sẵn sàng.
Ngoài những dịp này, Gioan Bosco có thường xuyên giảng không? Nếu bỏ qua một bên ý nghĩa chặt chẽ long trọng của động từ giảng, và nghĩ đến cộng đoàn tụ họp trong nhà thờ xung quanh toà giảng, đồng thời giới hạn vào yếu tố thiết yếu tạo nên ý nghĩa, tức là việc công bố lời Chúa, thì những người chuyên gieo hạt lời Chúa không phải là các nhà giảng thuyết sao? Theo nghĩa này, chẳng phải thầy tư giáo Bosco là một nhà giảng thuyết tài giỏi và không mệt mỏi sao! Chúng ta hãy xem.
Mỗi ngày thứ năm rất nhiều thiếu niên trong thành phố đến thăm thầy; thầy xuống với chúng, vui vẻ tiếp chuyện với chúng như trước đây, chuyện vãn với chúng về học hành cũng như về việc đạo đức, thầy không giải tán chúng mà không dẫn vào nhà thờ cầu nguyện một chút. Những gì chúng thấy, rồi chúng sẽ nhớ, thầy lập đi lập lại: “Cần phải luôn đưa vào trong những cuộc trò chuyện này vài suy tư về điều siêu nhiên; đó là một hạt giống mà khi đến thời sẽ sinh hoa trái”.
Đang khi gieo những hạt giống này, thầy luôn tìm thấy cơ hội để thêm vào những suy tư về bậc sống tu. Hơn nữa, người ta có thể nói rằng dạy giáo lý cho các thiếu nhi là niềm say mê của thầy; thầy không bao giờ bỏ qua dịp dạy giáo lý. Còn hơn nữa thầy còn tìm cách tạo ra các dịp như thế.
Thầy cũng là người gieo hạt giống Lời ngay cả ở nơi thánh. Trong các giờ giải trí dài, các thầy có hạnh kiểm tốt thường họp theo nhóm lớp; thầy rất thích thói quen này, bởi vì, ngoài việc học hành, thầy cảm nghiệm được ích lợi của việc đạo đức. Thầy tạo nên quanh mình một nhóm những bạn thân, một thứ hội có mục đích tuân giữ luật và giúp nhau học hành, nhưng nhất là giúp nhau tăng thêm nhiệt tình trong đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên ngay cả ngoài các buổi họp với bạn thân này, các cuộc trò chuyện của thầy cũng luôn kết thúc trong đề tài thầy ưa thích, như thể đạt tới mức độ mọi cuộc trò chuyện của anh em phải luôn đầy tràn ơn sủng.30
Một thầy bạn làm chứng: thầy luôn thích thú nói về những chuyện thiêng liêng. Thầy có cả một kho chuyện để mua vui và để thu hút. Một thầy bạn khác lớn tuổi hơn nói: Trong năm năm tôi là bạn học của thầy, thầy không bao giờ thiếu chuyện để kể vào khi lấy quyết định cuối mỗi lần họp, một mẫu gương lấy trong lịch sử Giáo hội, trong cuộc đời các thánh và trong vinh quang Mẹ Maria. Quyết định nói ở đây nằm trong chương trình sống. Nói tóm lại, cần có một tâm hồn tràn đầy Thiên Chúa để hầu như mỗi lần mở miệng có thể nói về Ngài như thế.
Người đều đặn thăm viếng thầy Bosco và được mong đợi hơn hết trong năm thứ nhất trong chủng viện chính là Luigi Comollo, lúc đó đang học năm cuối trung học. Cả hai không có gì mà không nói cho nhau; cả hai đều say mến Thiên Chúa, họ trao đổi cho nhau biết những kế hoạch riêng để hiến thân hoàn toàn cho phần rỗi các linh hồn. Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra tình thân giữa họ mà sau đó sẽ gắn bó họ với nhau trong chủng viện. Ở điểm này chúng ta thật may mắn có không ít nguồn chứng từ; vì thế chúng ta có thể trở ngược lại với hai người bạn này để tra cứu rõ hơn đời sống của chủng sinh Gioan Bosco trong những gì chúng ta quan tâm.
Sự đồng bộ khiến cho các ngày sống của một chủng sinh hơn kém giống nhau, nói chung, không có nhiều cơ hội bộc lộ những khuynh hướng cá nhân. Một giáo sư già nói, thầy Bosco tiến bộ rất nhiều trong học hành và trong lòng đạo đức, nhưng “không mang vẻ bên ngoài, sự khiêm tốn là điểm đặc sắc cuộc sống của thầy”. Do đấy trong chủng viện trước mắt nhiều người, người ta không hiểu thầy nhiều, cần tới những giai đoạn sau, họ mới hiểu được những điều mà trước đó họ chẳng hiểu và bởi thế họ nói như một giáo sư đã nói về thầy: “Tôi nhớ thầy khi còn là học trò của tôi; thầy thật đạo đức, chăm chỉ, gương mẫu. Chắc hẳn lúc đó chẳng ai biết trước về thầy như bây giờ. Nhưng tôi phải nói rằng cách sống của thầy thật đáng kính nể, sự chính xác của thầy trong bổn phận học hành và việc đạo đức là mẫu mực”.
Không may là con số những chứng nhân qúi giá như thế theo giòng thời gian mất dần đi, hoặc không còn nhớ được nữa! Đối với chúng ta, chúng ta sử dụng những điều biết được cách chắc chắn mà người ta có về tình bạn của ngài với thầy Comollo.
Học hành và việc đạo đức, nhà trường và tôn giáo: đây chính là nơi ý nghĩ của hai thầy chủng sinh hoàn toàn gặp nhau. Nơi các người trẻ tài giỏi, lòng yêu thích học hành đe dọa lòng đạo đức từ ba khía cạnh. Trước hết, hoạt động trí óc, khi thống lĩnh tinh thần sẽ đổ đầy tinh thần với những ý tưởng, sự gắn bó với chúng gây chia trí khi làm những việc đạo đức. Tiếp đến, kết quả cao thường gây nên sự kiêu ngạo của người trẻ, khiến họ dần dần đầu hàng và quên mất sự dịu ngọt của ân sủng. Sau cùng những người đam mê học dễ dàng rơi vào cám dỗ cắt ngắn thời giờ và tìm cớ để miễn chước cầu nguyện bao có thể, coi đó như làm mất thời giờ.
Trong các dòng tu, các thầy thường chuyển sang giai đoạn học hành sau một thời gian đã chuẩn bị thiêng liêng thích đáng, trong đó họ được dạy cho biết phải đặt lòng đạo đức lên hàng đầu; thế còn các chủng sinh, sau ngày mặc áo giáo sĩ họ bắt đầu ngay đời sinh viên, đến nỗi rằng nếu họ say mê sách vở và các bậc thầy, họ chẳng còn đầu óc nào dành cho nhà nguyện và các thực hành đạo đức nữa, hoặc ít là vất vả lắm để có được hứng thú đạo đức.
Thầy chủng sinh Bosco hơn người bạn về năng lực của trí khôn; nhưng trong nhiệt tình dành cho việc học và cho lòng đạo đức giữa họ có nhiều điều ngạc nhiên. Coi việc học như một bổn phận, họ cũng biết rằng giữa các bổn phận cũng có thứ bậc và họ đã dành chỗ nhất cho bổn phận đối với Thiên Chúa. Cả hai còn xác tín rằng đối với các giáo sĩ học hành là một phương tiện, tự nó không là mục đích, một phương tiện để sinh ích cho các linh hồn, vì thế phải hướng tất cả tới cuộc sống thánh thiện, không để cho tinh thần cầu nguyện hàng phục sự say mê học hành, và cả hai sẽ cùng giúp nhau tiến tới trong đời sống nội tâm. Don Bosco viết: “Cho tới lúc Chúa để cho người bạn vô giá này còn sống, anh ấy và tôi có tương quan rất thân mật. Tôi nhìn thấy nơi anh một vị thánh trẻ; tôi mến anh ấy vì có các nhân đức anh hùng; và khi tôi ở bên anh ấy, anh ấy bắt tôi học theo anh ấy đôi điều, và anh ấy cũng quí mến tôi, bởi vì tôi giúp anh ấy học”.
Một điều nhỏ nhưng lại cho thấy khác biệt. Gioan Bosco có cung cách riêng của mình. Luigi Comollo đặc biệt yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, thầy lên bàn thánh ruớc lễ với sự hồi tâm tột độ, biểu lộ xúc động mạnh; rồi khi trở về chỗ, dường như ngất trí, cầu nguyện giữa hơi thở ngắt quãng, rên rỉ và nước mắt, cứ như thế cho tới hết thánh lễ. Gioan có lẽ đã muốn bạn ngừng đừng để người khác thấy; nhưng thầy trả lời rằng nếu không để cho những tình cảm ấy thoát ra, thầy sẽ bị ngộp thở. Gioan tôn trọng sự sốt sắng nồng cháy đó, nhưng phần thầy, thầy cảm thấy đối ngược, xét vì điều đó tạo nên một bầu khí cá biệt và có thể khiến người ta thán phục mình.
Lòng đạo đức theo một cách thức khác cũng không kém nồng cháy. Khi lên rước lễ và khi về chỗ, không chút gì biệt lệ; rồi sau đó, khi cám ơn Chúa, thầy ở trong tu thế bất động, thân thể thẳng và đầu hơi cúi xuống, đôi mắt nhắm lại và đôi tay chắp lại trước ngực. Không một dấu hiệu nào của xúc động, dù là một hơi thở; chỉ đôi khi thầy mấp máy đôi môi, thầm thĩ một lời kinh nguyện. Tuy nhiên đức tin tỏa rạng trên khuôn mặt thầy.
Trong những tháng hè không ở chủng viện, hai người bạn thường xuyên viết thư và thăm viếng nhau, trong đó vấn đề thiêng liêng vẫn là chủ đề được yêu chuộng. Một trong những tài liệu đáng đề cập liên quan đến tương quan thánh thiện của họ là tiểu sử Comollo, qua đời trong tuổi còn rất trẻ vào năm thứ hai thần học; khi viết tiểu sử này Don Bosco đã dấu mình dưới cái tên không xác định “người bạn thân”.
Chuyện tiểu sử đang khi đề cao Comollo hiển nhiên luôn giữ yên lặng về tác giả khi trình bày “người bạn thân” này luôn như cái bóng mà thôi. Không thiếu những nguồn liệu bộc lộ sự thật và cho phép kết luận rằng trong sâu thẳm hai linh hồn đó đã nên một. Sự hoà hợp với nhau trong tinh thần đã làm cho họ nên anh em thân thiết.
Chúng ta đã đề cập tới các kỳ nghỉ. Don Bosco viết: “Các kỳ nghỉ là mối nguy hiểm lớn cho các thầy tư giáo, nhất là vì lúc bấy giờ kỳ nghỉ kéo dài bốn tháng rưỡi”. Thầy suy nghĩ trước để tìm cách thánh hóa chúng, tìm cách duy trì sự hăng hái của chủng viện. Trừ ra năm thứ nhất, năm đó thầy ở với các tu sĩ dòng tên ở Montaldo, học tiếng Hy lạp trong một lớp và giúp hộ trực phòng học chung, những năm sau thầy giữ một nhịp độ cao trong kỳ nghỉ mà người ta có thể tóm tắt trong hai chữ: tránh nhàn rỗi và thực hành các việc đạo đức.
Để không sống nhàn rỗi, thầy chia thời giờ để học, làm việc chân tay, vốn được khuyên cần thiết cho sức khỏe, coi lại bài vở. Những vùng lân cận các nhóm hay các học sinh riêng lẻ tìm tới với thầy để ôn lại những môn đã học hoặc để chuẩn bị tốt cho năm học sắp tới. Thầy tỏ ra là một thầy giáo giỏi. Và đây là chứng từ của một giáo sư, lúc bấy giờ là một người trong nhóm: “Bài học đầu tiên đó là học biết kính sợ Thiên Chúa và vâng theo các huấn lệnh Ngài, trước khi kết thúc học thầy luôn khuyên chúng tôi về sự cầu nguyện, về lòng kính sợ Chúa và xa tránh tội lỗi cũng như các dịp tội”.
Về thực hành các việc đạo đức, theo thói quen của thầy, thầy không làm những gì ngoại thường, nhưng trung thành giữ những gì của đời sống giáo sĩ: nguyện ngắm, sách thiêng, lần hạt, viếng Mình Thánh Chúa, dự lễ hằng ngày, xưng tội đều đặn, thường xuyên rước lễ. Sẵn sàng phục vụ trong bất cứ nghi lễ thánh nào. Tất cả các Chúa nhật thầy hăng hái tham gia dạy giáo lý cho thiếu nhi trong giáo xứ. Mỗi khi nghe chuông nhà thờ đổ báo đem Mình thánh Chúa cho kẻ liệt, thầy vội vàng đến nhà thờ ngay, mặc áo cotta (áo trắng ngắn bên ngoài dùng trong các nghi thức), lấy dù và đi theo Mình thánh Chúa. Thày cũng không miễn cho mình giúp trong giảng thuyết tại giáo xứ. Cuối cùng, ý thức về tầm quan trọng của gương sáng, thầy giữ mọi nơi và với mọi người một thái độ nghiêm chỉnh và không chê trách được, đó là điều mà những người cùng xứ sở với thầy luôn thấy rõ.
Tinh thần sống đời giáo sĩ của thầy thật vững vàng, biểu lộ sự thánh thiện từ bên trong tới bên ngoài. Về điều này có nhiều giai thoại thú vị trong tiểu sử ngài, tuy nhiên đây không phải là chỗ để đề cập, dù là sơ lược về chúng. Mục tiêu của chúng ta là tìm hiểu về những dự thế thiêng liêng mà thầy có khi chuẩn bị chịu các chức thánh.
Cuối thời gian học là việc chuẩn bị lãnh chức phụ phó tế, giây là lúc quyết định trong đời sống của một tư giáo, thầy để lộ cho chúng ta thấy tâm hồn của mình với những diễn tả mà từ đó chúng ta không phải biết phải thán phục thầy ở điểm nào hơn điểm nào. Hoặc đó là sự nhậy cảm trong lương tâm của thầy hoặc là sự kính trọng sâu xa của thầy đối với chức linh mục, cả hai vốn đều là hoa trái của sự liên lỉ nhìn mọi sự trong Thiên Chúa. Thầy viết: “Giờ đây tôi biết hiểu rõ những nhân đức cần thiết cho bước tiến tới quan trọng này. Tôi thấy rằng mình chưa chuẩn bị đủ. Vì không có người trực tiếp quan tâm đến ơn gọi của tôi, nên tôi đi bàn hỏi với Don Cafasso. Ngài bảo tôi cứ thẳng tiến và tin tưởng vào lời ngài.
Trong thời gian mười ngày tĩnh tâm tại Nhà Truyền Giáo ở Torino, tôi xưng tội chung để nhờ thế vị giải tội có thể có một ý tưởng rõ ràng về lương tâm tôi và cho tôi lời khuyên thích hợp. Tôi ước ao hoàn tất việc học, nhưng lại cảm thấy sợ trước ý tưởng phải ràng buộc mình cả đời; bởi thế tôi không muốn lấy quyết định dứt khoát nếu không có sự đồng ý của cha giải tội. Từ lúc đó trở đi tôi thực hiện với hết sức mình lời khuyên của nhà thần học Borel: -Với sự xa lánh thế tục và thường xuyên lãnh Thánh Thể, người ta giữ gìn và nên hoàn hảo trong ơn gọi-”. Vị linh mục tốt lành người Torino này đã trả lời cho thầy như thế trong một buổi giảng tĩnh tâm.
Cùng với những lời này, chúng ta còn có chứng từ của một người cùng lớp và là bạn thân, sau sẽ trở thành vị giải tội của ngài cho tới bên giường chết. Về việc chuẩn bị chịu chức linh mục của thầy phó tế Gioan Bosco, người bạn đó viết như sau: “Thầy chuẩn bị thật tốt. Cách đặc biệt, thầy được thấm nhuần lời Chúa bởi việc nghe giảng, và nhất là trong những gì liên quan đến phẩm chức mà thầy sắp lãnh nhận”.
Kỷ niệm về tuần tĩnh tâm đó, thầy viết xuống chín ý định. Ý định áp chót ghi thế này: “Mỗi ngày tôi sẽ dành thời giờ cho việc nguyện ngắm và cho việc đọc sách thiêng. Trong ngày tôi sẽ viếng và cầu nguyện trước Thánh Thể. Trước và sau thánh lễ tôi sẽ dành mười năm phút để chuẩn bị và cám ơn”.
Chương trình sống thứ hai này, thực ra, trên nền tảng không có gì mới so với chương trình đã làm trước, nhưng chỉ đưa ra một ích thay đổi phụ thuộc do hoàn cảnh đòi hỏi. Đó là vì Don Bosco không bao giờ làm gì một cách mù quáng, như người đi trong bóng tối ngay cả chút lý lẽ trí khôn cũng không có. Nếu mà được phép dùng một câu để diễn tả điều Don Bosco ưa thích, có lẽ chúng ta sẽ nói rằng ngài không ngần ngại như những người khác khi phải nhổ chiếc răng khôn. Thực vậy, từ lúc xuất hiện trong ngài đóm lửa đầu tiên của trí khôn, ngài đã mau chóng khám phá ra con đường ngay thẳng và đã đi vào đó ngay lập tức, tiến lên theo những cách thức và phương tiện mà khả năng phân định tự nhiên, được ân sủng trợ giúp, chỉ dẫn cho ngài. Cả hai chương trình sống này đều dựa trên bốn cột trụ, theo đó sự thánh thiện của Don Bosco sẽ được xây dựng: làm việc và cầu nguyện, hãm mình bên trong cũng như bên ngoài, và tiếp đến như cách ngài thích diễn tả, nhân đức tuyệt đẹp.
Trong chương trình sống mới ngài đề cao hơn khía cạnh hoạt động. Từ khi làm linh mục Don Bosco, theo những quyết định này, sẽ chẳng bao giờ đi dạo chơi, nếu không phải vì lý do rất cần thiết, chẳng hạn để thăm viếng bệnh nhân và những việc tương tự; sẽ lợi dụng cách nghiêm khắc thời giờ: “chịu đau khổ, làm việc, và hạ mình luôn luôn trong mọi sự khi lợi ích các linh hồn đòi hỏi”; sẽ không cho thân xác nghỉ ngơi hơn năm giờ mỗi đêm; trong ngày, đặc biệt sau bữa trưa, sẽ không nghỉ, trừ khi vì lý do đau bệnh. Nhưng hoạt động không bao giờ tách rời khỏi cầu nguyện; cũng như trong quá khứ, việc nguyện ngắm luôn có chỗ trong chương trình mỗi ngày. Vâng chính trong nguyện ngắm mỗi ngày mà người linh mục tìm được chính mình, và linh mục Bosco bận bịu suốt ngày sẽ kín múc được tinh thần hồi tâm cầu nguyện, nhờ đó luôn giữ được đức tin sống động và kết hợp thường hằng với Chúa Giêsu thượng tế, từ nơi Ngài sẽ lãnh nhận dồi dào ơn sủng để thực thi thừa tác vụ thánh.
Không khi nào Marta tách rời khỏi Maria trong đời sống linh mục của Don Bosco. Đó sẽ là Marta cầu nguyện và Maria hoạt động: là Marta cầu nguyện bao lâu ngài còn hoạt động còn mạnh mẽ, và là Maria hoạt động khi những hoạt động này bị giảm thiểu vì tuổi xế chiều; nhưng dù bất kỳ thời nào trong đời mình nữa, ngài không bao giờ quên: anh em hãy cầu nguyện liên lỉ.
Chú thích
30 Col 4, 6.