Chương II. Tại trường học
Cuộc sống của Gioan Bosco đã chịu một sự thay đổi mạnh khi bị tách khỏi nơi sinh trưởng, cậu phải đến sống ở Chieri, từ một đứa bé nhà quê lập tức trở thành người dân thành thị và học sinh. Chieri không phải là Torino, nhưng lại rất giống Torino. Trong một môi trường văn minh hơn thì cũng luôn có những cái mới lạ giăng cạm bẫy; tự lập hơn cũng như trong bầu khí tân tiến hơn.
Một cậu bé miền quê, lớn lên trong tầm mắt của người thân, hơn kém luôn sát bên cạnh trong tổ ấm gia đình, không biết gì ngoài những bận tâm và những vui thú đồng quê, chẳng quen ai ngoài những người dân chất phác, giờ đây thình lình ở ngay nơi một trung tâm được gọi là văn minh, từ cách ăn mặc cho tới thói quen hoàn toàn khác biệt, lạc lõng giữa những người không quen biết; rơi vào một hoàn cảnh thật nguy hiểm đối với tuổi đang lớn lên, cậu bé đã phải có một năng lực, một tinh thần mạnh mẽ như thế nào; chúng ta hãy tưởng tượng một cậu bé từ ruộng vườn ra ngoài thành phố như thế, chìm ngập trong đám người thuộc tầng lớp hạng hai hoàn toàn tự do kiểu thế tục như thế nào. Đứng trước những nguy hiểm thình lình ập tới như thế, Gioan đã chuyển sang thế tự vệ, không kể vì những mục tiêu thánh thiện và hoàn cảnh nghèo của, thì chính lòng đạo đức đã che chở cậu khỏi những tấn công thù nghịch.
Lòng đạo đức luôn sinh ích cho tất cả,25 bởi vì nó phơi bày mọi sự trong ánh sáng thật,26 ánh sáng thần linh. Lòng đạo đức ấy đã hướng dẫn cậu trong những bước đầu tiên đầy những hiểm nguy đó, đã giúp cậu biết và tìm ra những người bạn đầu tiên.
Cậu nhận định: “Người đầu tiên tôi quen là một linh mục mà tôi nhớ và tôn kính suốt đời. Ngài cho tôi lời khuyên để có thể tránh được những nguy hiểm; ngài mời tôi giúp lễ, và mỗi khi có dịp ngài lại cho tôi những gợi ý tốt. Chính ngài đưa tôi đến gặp hiệu trưởng trường học… và ngài giúp tôi làm quen với các giáo sư… Ngài giúp nhận định bạn bè thành ba nhóm: tốt, dửng dưng và xấu. Nhóm cuối cùng này phải tuyệt đối tránh ngay khi vừa biết họ; nhóm người dửng dưng thì đối xử theo sư lịch thiệp và theo sự cần thiết; còn đối với nhóm người tốt thì mới nên kết bạn, tuy nhiên sự thân tình chỉ nên với những người thật tốt khi đã biết rõ họ như thế. Đây chính là cách thế vững chắc… Tuy nhiên tôi đã phải đấu tranh không ít với những người mà tôi thấy họ không tốt... Sau mấy lần dần dần gặp gỡ tôi đã có thể khám phá ra chúng và tôi đã thoát được cái đám bạn buồn chán đó bằng cách trốn chạy chúng.
Chính lòng đạo đức đã dẫn dắt cậu tìm kiếm cái mà cậu ao ước, hướng tới những mối tương quan cần thiết hơn.
“Cuộc phiêu lưu của tôi thật là may mắn, cậu viết, tôi đã chọn được một kinh sĩ làm vị giải tội thường xuyên. Ngài luôn đón tiếp tôi với đầy lòng nhân ái. Hơn nữa ngài còn khuyến khích tôi xưng tội và rước lễ thường xuyên. Thời bấy giờ tìm được một người cổ võ việc thường xuyên lãnh các bí tích là một điều khá hiếm hoi. Ai đi xưng tội và rước lễ hơn một lần một tháng, đã được coi là rất đạo đức, và thường các cha giải tội không cho phép điều đó. Phần tôi, tôi cảm thấy mắc nợ vị giải tội này, không có ngài có lẽ tôi đã bị lôi kéo bởi các bạn vào những chuyện vô trật tự mà mấy đứa không có kinh nghiệm đã rơi vào tại các trường”. Các trường ở đây hiểu là các trường công.
Không chỉ các bạn không lôi kéo được cậu vào chuyện vô trật tự, mà chính cậu lại lôi kéo khá đông chúng vào con đường ngay lành. Một thiếu niên đạo đức trong các buổi chiều tại lớp học, không chút tâm địa xấu xa và chỉ cần một chút can đảm, đã chiếm được lòng của đồng bạn một cách quá dễ dàng đến độ không tin nỗi. Như thế chỉ trong thời gian ngắn, Gioan đã chiếm được sự kính trọng và qúy mến của đám trẻ Chieri, và cậu đã lập Hội Vui. Luật của hội này gỏn gọn bao gồm hai điều: tránh mọi câu chuyện, mọi hành vi ngược với người Kitô hữu tốt, và chu toàn xác đáng mọi bổn phận học hành và đạo giáo.
Mỗi thành viên có nhiệm vụ tìm các sách vở và trò chơi thích hợp để làm vui các bạn: cấm bất cứ gì gây ra những ý tưởng hay lời nói không hợp với luật Chúa. Trong các ngày lễ, các thành viên đi dự giáo lý trong nhà thờ của các cha dòng Tên; trong tuần tụ họp tại nhà của một thành viên, và ai trong số tham dự muốn thì tự do nói, rồi giải trí chung với nhau, thảo luận, đọc sách đạo đức, cầu nguyện và cho nhau lời khuyên, cũng như cách cá nhân giúp sửa lỗi cho nhau nếu người nào đó thấy hoặc nghe điều gì về bạn mình.
Ngoài các hoạt động thân hữu này, Don Bosco viết “chúng tôi còn đi nghe giảng, xưng tội và rước lễ”. Hội vui vì thế là một cách thức cậu dùng để phục vụ Chúa.27
Chúng ta không cần phải ca ngợi vì mục đích của hội chính yếu là nhằm giáo huấn, nhưng chính các sự kiện buộc chúng ta thán phục. Thực vậy, nếu các thiếu niên đạo đức gặp gỡ nhau thường xuyên thì đã phải tạ ơn Chúa; nhưng thật hiếm nếu thấy những thiếu niên có một lòng đạo đức năng động như thế, vì họ cảm thấy một sự thúc bách thường hằng, một nhu cầu phải mang Thiên Chúa vào trong linh hồn người khác, cần phải mang họ tới gần Chúa hơn.
Gioan Bosco nuôi dưỡng trong cậu một lòng đạo đức mang vẻ một điều thiện, mà người ta nói tự bản tính sẽ diffusivum sui (hữu xạ tự nhiên hương).
Nhìn thấy một người và nghĩ ngay tìm cách làm cho họ trở nên Kitô hữu hơn, đây sẽ trở thành chương trình hoạt động của đời sống linh mục của cậu sau này; tuy nhiên nó đã được nhìn thấy trước trong khuynh hướng của cậu trong những năm tuổi còn xanh này. Chúng ta thấy cậu luôn làm việc giữa các bạn cùng tuổi và các người theo cậu. Nếu muốn kể tất cả ở đây chúng ta sẽ phải lập lại không biết bao nhiêu, vả lại đây không phải là một cuốn tiểu sử: chúng ta chỉ mong muốn làm nổi bật cái đặc điểm trong đường thiêng liêng của ngài.
Ở điểm này, ai biết được? có những độc gỉa ngờ vực, nhìn thấy nơi cậu bé Bosco cái khuynh hướng bẩm sinh thích xuất hiện nơi công cộng và làm trò lừa bịp ồn ào, có lẽ sẽ bị cám dỗ đưa ra nhận định về động lực của những thứ trình diễn đó. Cái tham vọng làm thủ lãnh tí hon nổi tiếng không phải qúa khó mà hoà hợp được với những đòi hỏi của đời sống nội tâm và với trốn chạy sự ồn ào và tìm sự quên lãng của khoa tu đức truyền thống đó sao? Trước những nghi vấn đó, có lẽ việc tìm hiểu mục đích, cách thức, hoàn cảnh và các kết quả cũng đủ. Riêng chúng ta không bận tâm làm chuyện này. Chúng ta giới hạn trong những sự kiện.
Với tất cả mọi thứ người khác nhau, nơi cậu luôn có cùng một tinh thần sinh động: sự hăng say của một tâm hồn đạo đức, quan tâm đến ích lợi thiêng liêng của người khác. Đứa con trai nghịch ngợm số một của chủ nhà làm cho mọi người đều thất vọng; Gioan làm quen với nó, lôi kéo nó từ từ biết sống đạo, thân thiết với nó cho tới khi nó biết tự mình sống tốt.
Thường lui tới nhà thờ lớn, cậu làm quen với ông từ gia” muốn đi tu làm linh mục, nhưng ông đã lớn tuổi mà chưa được học hành, thiếu những phương tiện và bận bịu đủ thứ chuyện. Gioan chẳng bận tâm chuyện trả công, do đức ái thúc đẩy, giúp ông học mỗi ngày một chút trong hai năm trời để chuẩn bị cho ông thi mặc áo giáo sĩ. Cậu còn làm bạn với một thiếu niên Do thái khoảng mười tám tuổi, giúp anh ta lãnh nhận bí tích rửa tội, cậu dậy giáo lý cách bí mật, vượt qua những chống đối từ thân nhân và người cùng đạo, cho tới khi anh này tới bên giếng rửa tội.
Tất cả sự sung mãn đầu mùa của việc tông đồ đã thấy được nơi đây. Nó cũng cho chúng ta bằng chứng về sự kết hợp từ khi tuổi nhỏ với Thiên Chúa. Người ta đều biết rằng biết cách làm và nói chẳng giúp ích bao nhiêu nếu thiếu tinh thần cầu nguyện và thiếu gương sáng là điều không thể miễn chước trong những việc tông đồ.
Câu châm ngôn “hãy cho tôi biết anh đi với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai” cũng cố cho luận đề của chúng ta nếu chúng ta nhín vào tình bạn của cậu Gioan với một sinh viên thánh thiện. Tiếng tăm về sự thánh thiện đã tới Chieri trước cả khi Luigi Comollo tới nơi. Vừa khi biết tin Gioan nóng lòng muốn làm quen với anh ta; quen rồi Gioan khao khát có được tương quan; khi đã có được tình bạn với anh ta, cậu tìm thấy một thực tại còn lớn hơn sự trông đợi.
Chúng ta tìm thấy trong “Hồi Ký”: “Anh ấy luôn là người bạn thân của tôi… Tôi hoàn toàn tín nhiệm nơi anh cũng như anh ấy nơi tôi… Tôi để cho anh ấy hướng dẫn bất cứ nơi đâu và theo cách thức của anh ấy muốn… Chúng tôi cùng nhau đi xưng tội, rước lễ, nguyện ngắm, đọc sách thiêng, viếng Mình Thánh Chúa, giúp lễ”. Khi nhấn mạnh trên việc nguyện ngắm chúng ta thấy bằng việc thực hành này, cậu không ngừng muốn canh tân đời sống nội tâm. Thế còn những trao đổi của họ ra sao? Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng.28 Họ nói cho nhau về những điều thiêng liêng. “Bàn thảo và nói chuyện về những đề tài như thế với anh ấy, Don Bosco viết, anh ấy cảm thấy một sự an ủi lớn lao. Anh ấy cắt nghĩa với sự say mê tình yêu vô bờ của Chúa Giêsu khi ban thân mình cho chúng ta làm của ăn trong Thánh Thể. Khi nói về Đức Trinh Nữ rất thánh, anh trở nên như chìm trong sự cảm mến, và sau khi thuật lại hoặc nghe thuật lại những ơn lành phần xác của Mẹ ban cho, khuôn mặt anh bừng sáng và nhiều lúc bật khóc: - Nếu mà Mẹ đã thương ban ơn cái thân xác khôn khổ này, thì còn biết bao ơn huệ khác Mẹ sẽ ban cho linh hồn kẻ kêu cầu Mẹ? Ôi, nếu mà mọi người thành tâm sùng kính Mẹ Maria, thế giới này sẽ hạnh phúc biết bao!”
Về phía mình, Don Bosco cho rằng mình đóng vai người nghe; chắc rằng sẽ chẳng đóng vai dự thính thinh lặng mãi được. Dầu sao chăng nữa, sự tuôn trào cảm tính này sẽ chẳng có gì thật và càng không đáng lập lại nhiều lần, nếu từ hai phía không có cùng khả năng hiểu và cảm nghiệm.
Bốn năm trung học kết thúc với một kết qủa đáng tự hào. Các môn thi được điểm xuất sắc, các giáo sư kính nể và quí mến, các bạn bè thán phục, người dân có thiện cảm; chẳng có gì mà lại không có những dấu hiệu tiên báo, cũng như vào lúc bình minh người ta biết ngày sẽ ra sao. Nhưng ai biết đâu đã có biết bao lo âu, biết bao khó khăn, biết bao nguy hiểm, biết bao mất mát! Sự bền bỉ mà cậu có được chính là nhờ kinh nguyện, tìm thấy nơi nương tựa nơi Thiên Chúa của mọi niềm an ủi.
Sự quan phòng đã sắp đặt như thế, để một ngày kia ngài có thể an ủi những ai lâm cảnh gian truân.29
Dù là người bình thản, không khi nào bị phiền toái “bởi gió nồm đốt cháy sự nghèo khó khốn cực”, nói theo kiểu của Dante, thì trong năm thứ hai cậu cũng bị chịu một đám mây che tối. Trong lứa tuổi của cậu, người ta có thể gọi đó là một sự khủng hoảng về ơn gọi.
Từ lúc thiếu thời cậu đã khao khát làm linh mục, thế mà đến cuối năm trung học, có hai nỗi sợ đã tấn công cậu. Hai nỗi sợ này, càng đến gần thời khắc quyết định, càng đẩy cậu tới sự bối rối và lo âu. Một đàng cậu hiểu rõ hơn sự cao cả của chức linh mục và thấy mình bất xứng vì thiếu những nhân đức cần thiết; đàng khác biết rõ cuộc sống ngoài đời, sợ rằng mình sẽ thua cuộc nếu làm một giáo sĩ triều.
Nỗi đau tinh thần của cuộc chiến này lộ ra, khi nhiều năm sau ngài thốt lên trong “Hồi ký”: “Ôi giá mà khi đó tôi có được một người hướng dẫn quan tâm đến ơn gọi của tôi, đó sẽ là một kho tàng, thế mà kho tàng đó tôi lại không có”. Thật vậy, vị giải tội của cậu, muốn giúp cậu làm một người tín hữu tốt, nhưng về vấn đề ơn gọi ngài không muốn nói tới.
Cậu đành phải tự mình tìm tòi, tìm kiếm trong các sách bàn về chọn lựa bậc sống. Một tia sáng đã tỏa sáng cho cậu. “Nếu tôi làm giáo sĩ triều, cậu nghĩ, ơn gọi của tôi sẽ ở trong tình trạng nguy hiểm. Tôi sẽ chọn bậc sống cho Giáo hội, tôi sẽ từ bỏ thế gian, tôi sẽ đi vào một đan viện, tôi sẽ chú tâm học hành, nguyện gẫm, và như thế trong cảnh cô tịch tôi sẽ chiến đấu với các đam mê, đặc biệt là tính kiêu ngạo vốn ăn rễ sâu trong con người tôi”. Bởi đó, cậu xin vào dòng thánh Phanxicô, và nhìn thấy khả năng cũng như lòng đạo đức của cậu, nhà dòng đã nhận ngay. Thế nhưng trái tim của cậu lại không được yên hàn.
Còn những người tốt bụng và nghiêm chỉnh mà cậu cởi mở tâm sự với họ, họ tìm mọi cách ngăn cản ý định của cậu muốn trở nên thày dòng, họ khuyên cậu nên đi vào chủng viện. Thế là sự bất an của cậu càng gia tăng.
Chúa quan phòng đã khiến cậu tìm đến hỏi chân phước Giuseppe Cafasso, lúc đó còn là một linh mục trẻ nhưng đã là một người có tiếng về có ơn soi sáng. Don Cafasso lắng nghe thật chăm chú rồi bảo cậu cứ tiếp tục học cho xong trung học và đi vào chủng viện.
Đang khi có những lo âu nội tâm thì cuộc sống bên ngoài của cậu diễn tiến như không có gì xảy ra, giữa những môn học, việc đạo đức, hoạt động bác ái và công việc tay chân để kiếm sống, đến độ chẳng ai có cảm tưởng gì cậu đang có những ưu tư.
Suy tư về Thiên Chúa, khi thấm nhập vào một linh hồn, sẽ làm cho linh hồn đó biết làm chủ mình và thường hằng có sự thanh thản trong cách biểu lộ bên ngoài, dù rằng trong sâu thẳm cảm thấy bị đánh động.
Thẩm quyền của Don Cafasso đã làm cho những nghi vấn được yên lắng; nhưng sau đó, khi đọc lại các sách về ơn gọi, chính cậu đã lãnh lấy quyết định. Có lẽ cậu có thể đã gõ cửa các thầy Phanxicô lần nữa, nếu cậu thấy cần thiết trong giai đoạn đó, tuy nhiên chúng ta không biết việc này; cậu chỉ kể lại cho chúng ta rằng, dù biết bao trở ngại ngày càng nhiều, cậu quyết định kể tất cả cho Comollo. Cũng là ngạc nhiên khi thấy trong tấn kịch nội tâm này sao lại bỏ qua người bạn thân qua một bên, có lẽ cậu đã phải suy nghĩ nhiều lắm. Tuy nhiên sự thân mật tư nó không là một thẩm quyền trong những vấn đề tế nhị như vậy; hơn nữa, Gioan vốn là một người giầu về tư duy và có khả năng truyền thông, lúc này lại hoàn toàn không phải là người biện bác.
Thế là cùng nhau họ chuẩn bị, cùng nhau họ lãnh nhận các bí tích, cùng viết để bàn hỏi với một linh mục đáng kính, chú của Comollo. Vị linh mục này, vào đúng ngày cuối của tuần chín ngày kính Đức Mẹ, trả lời cho cháu: “Suy nghĩ cẩn thận về những điều trình bày, chú khuyên anh bạn của cháu hãy bỏ ý định đi vào đan viện. Hãy mặc áo giáo sĩ, và đang khi học anh ta sẽ biết rõ ý định của Thiên Chúa. Đừng sợ chi đánh mất ơn gọi, bởi vì với sự xa lánh đời cùng với thực hành đạo đức anh ta sẽ vượt qua mọi trở ngại”. Học hành, xa lánh đời, việc đạo đức: đó không phải là điều mà cậu vẫn làm ở Chieri hay sao? Giống như don Cafasso và như chú của Comollo, cha sở khuyên nhủ cậu vào chủng viện, hãy hoãn lại quyết định vào dòng tu tới một lúc chín chắn hơn. Tất cả những yếu tố này đã giúp cậu lấy lại sự thanh thản; thế nên, cậu viết: “tôi trở nên bình thản trong vấn đề này và tôi chuẩn bị cho việc mặc áo giáo sĩ”.
Mặc áo giáo sĩ đối với Gioan Bosco không chỉ thuần túy là một nghi thức. Thầy biết tập trung nhờ việc hồi tâm và kinh nguyện tuy không cô lập mình – thật vậy có khoảng năm mươi bạn thiếu niên đang đợi thầy, chúng quí mến và vâng lời như bố của chúng – một cách thiêng liêng thầy tách khỏi chúng để chuẩn bị vì hiểu rất rõ tầm quan trọng của nghi thức thánh. Những tâm tình đạo đức trong buổi lễ hôm đó còn rung động trong trang “Hồi ký” mà nhờ đó chúng ta biết được.
“Khi vị chủ lễ (prevosto) bảo tôi cởi áo thế gian với những lời: Xin Chúa cởi bỏ con người cũ của con cùng với các hành vi của nó, tôi nói thầm: - Vâng, áo cũ, cần phải cởi bỏ! Lạy Chúa, xin hãy xoá bỏ nơi con những thói quen xấu. – Rồi khi đưa cho tôi áo ngài thêm: Xin Chúa mặc cho con con người mới, được tạo dựng theo ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện, tôi cảm thấy xúc động và nói thầm: Vâng, lạy Chúa, xin làm cho con từ giây phút này bắt đầu cuộc sống mới theo thánh ý Chúa, xin sự công chính và sự thánh thiện luôn là đối tượng của suy nghĩ, của lời nói, của mọi công việc của con. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ là sự cứu độ của con”.
Kết thúc buổi lễ, thầy viết lại và soạn ra bảy điều luật sống; điều thứ sáu ghi lại như sau: “Ngoài những thực hành đạo đức thông thường, hằng ngày tôi sẽ không bao giờ bỏ nguyện ngắm và sách thiêng trong ít phút”. Và để cho những ý định tốt không trở thành chữ chết, thầy muốn cam kết một cách long trọng; vì thế qùy trước ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh, thầy đọc từng điều và sau khi cầu nguyện sốt sắng “tuyên hứa long trọng trước Đấng Bảo Trợ thiên quốc sẽ giữ những điều ấy với bất cứ giá nào”.
Cần phải nói đôi chút về những gì nói bên trên. Lòng đạo đức và tinh thần cầu nguyện gần như cùng là một và được dùng thay lẫn cho nhau. Tinh thần cầu nguyện thông thường tự diễn tả bằng những hành vi, nhờ đó người ta tôn vinh Thiên Chúa và trong cách nói hiện thời thường được gọi chung là lòng đạo đức; như thế như người ta muốn phân biệt, chúng ta gọi lòng đạo đức sâu xa, thường hằng là tinh thần cầu nguyện.
Vì chúng ta đã bắt đầu trong luận đề, chúng ta đưa ra thêm một nhận xét cần thiết. Trong thực hành đạo đức, người ta có thể nhấn mạnh một yếu tố nào đó hơn những yếu tố khác, chính lòng đạo đức cho phép được ghi khắc với những yếu tố chuyên biệt. Dưới cái nhìn này người ta tin rằng có thể xếp loại các dòng tu, chẳng hạn, lòng đạo đức benedictin với phụng vụ, Phanxicô với tâm tình, Đaminh với giáo lý, Chúa Cứu thế với người bình dân.
Dựa theo nguyên tắc đã đưa ra, trong thực hành đạo đức của Gioan Bosco đâu là điểm báo trước đặc điểm lòng đạo đức Salêdiêng? Dường như không còn xa lắm để thấy được những đường nét riêng biệt của lòng đạo đức được gọi là mang tính bí tích, đặc biệt với bí tích giải tội và Thánh Thể đó sao? Nhưng điều đáng nói là hai bí tích này không bao giờ được thường xuyên thực hành trước đây, vị sáng lập dòng Salêdiêng sẽ mở ra cho các trường của ngài dòng thác nguồn ân sủng.
Chú thích
25 1 Tim 4, 8.
26 Gioan 1, 9.
27 Tv 99,1.
28 Mat 12, 34.
29 2 Cor 1, 34.