Chương XIX. Trong buổi hoàng hôn yên bình

Trải qua một cuộc sống đầy tràn các ơn sủng siêu nhiên như cuộc sống của Don Bosco, nhiều người nghĩ rằng vào lúc cuối đời sẽ phải bùng phát ra những tia sáng phi thường, báo trước ánh sáng vĩnh cửu; trái lại đã chẳng có gì khác thường, tất cả đã trải qua trong các hình thức và điều kiện bình thường mà con người phải đối diện với cái chết được báo trước bởi sự đau yếu lâu ngày và đau đớn. Chẳng có gì khác thường ngoài sự phi thường mà Don Bosco đã chịu đựng cho tới cuối cùng các bệnh tật của mình. Sự thánh thiện tăng trưởng cho tới tận khi cuộc sống chấm dứt.

Faber viết: “Cái chết của một vị thánh là công trình của nghệ thuật thần linh, một kiệt tác siêu nhiên tỏa sáng vẻ đẹp vĩnh cửu; không có hai cái chết giống nhau, và mọi cái chết đều đáng thán phục”.167 Cũng chính tác giả, khi nói rằng đối với Chúa mọi cái chết đều thật là quí gía, đã thêm vào đó một cái chết được gọi là “cái chết của sự không dính bén”. Người đã hy sinh hết tất cả, không còn gì để lột bỏ nữa, không có gì để bỏ đi nữa, người đó thực hiện một cái chết, bởi vì linh hồn người đó hoặc chẳng còn gì dính bén với trần gian hoặc vì đã không dính bén từ lâu, thế nên cái chết tinh thần đã đi trước cái chết thể lý. Ông nói tiếp: “Một cái chết như thế là một hành vi tình yêu một cách thuần túy. Có thể gọi đó là sự cử hành một nghi thức thánh, thay vì gọi đó là một sự phạt mình. Người không dính bén không còn là con cái của trần gian nữa, nhưng là một thiên thần có thân xác”.168

Nhìn từ góc độ này chúng ta hiểu  Don Bosco trong bốn mươi hai ngày cuối đời khi ngài chuẩn bị từ giã trái đất để về trời: ngài không còn là người của trần gian nữa, ngài hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi sự đợi trông tín thác vào những phúc lộc tương lai. Chúa đã khiến cho trong một khoảng thời gian ngắn từ giường bệnh đau đớn, ngài giáo huấn chúng ta bằng sự kiên nhẫn anh hùng, bằng lòng nhiệt thành bừng cháy không tàn lụi vì phần rỗi các linh hồn và bằng lòng đạo đức sốt sắng: một hiệu qủa tam diện của sự kết hiệp liên lỉ với Thiên Chúa, sự kết hiệp đã khiến ngài chịu đau khổ vì yêu Thiên Chúa, khiến ngài yêu tha nhân trong một tình mến siêu nhiên và khiến ngài trông đợi Chúa trong tình con thảo.

Với ba chiều lưu xuất này của sự kết hiệp với Thiên Chúa, người ta cũng có thể tìm thấy lòng sùng kính vô điều kiện của ngài dành cho vị đại diện Chúa Kitô. Tuy nhiên, Don Bosco vẫn luôn là Don Bosco: chúng ta không kỳ vọng những biểu hiện chấn động bên ngoài: những tâm tình sâu xa của ngài biểu lộ trong sự bình thản và quân bình. Chiều kích nội tâm của những người mà đời sống họ ẩn giấu cùng với Đức Kitô trong Thiên Chúa không thể giấu được con mắt của những người có khả năng quan sát.169 Chúng ta cùng tìm hiểu từng điểm những điều vừa nói.

Don Bosco không bao giờ đánh mất sự kiên nhẫn dù chỉ một lần vì những đau đớn hành hạ ngài, bởi vì các nhân đức đối thần giúp sức cho ngài. Đức tin khiến ngài nhìn thấy sự đau yếu như được Thiên Chúa gởi tới vì lợi ích cho linh hồn ngài; đức cậy tuôn đổ vào tâm hồn ngài sự bình thản trong niềm tín thác rằng sự trợ lực thần linh sẽ giúp ngài chịu đựng mọi bất tiện do bệnh tật gây nên; đức ái khiến ngài hoàn toàn hợp với ý Chúa, bởi vì chấp nhận chịu đau khổ thuần túy vì yêu mến Chúa mà thôi. Sự kiên nhẫn khiêm nhường này được ngài thực thi bằng lời nói, việc làm và trong tư tưởng.

Trong suốt bốn mươi hai ngày này không một ai nghe một lời kêu than từ đôi môi của Don Bosco vì sự phục vụ, vì các cách thức và phương tiện chăm sóc. Tuy nhiên, ngay cả khi không kêu ca vì điều này, thì một điều rất bình thường là người ta hay nói về tình trạng của mình! Đó là một sự bộc phát tự nhiên. Họ thích kể mỗi khi có dịp, họ muốn rằng người khác biết rằng họ đã trải qua thế nào, họ diễn tả diễn tiến của cơn bệnh và dự đoán điều sẽ xảy ra cho họ. Rồi nếu không một cách hữu ý tìm kiếm sự thương cảm về đau khổ họ phải chịu, thì họ cũng cảm thấy sung sướng khi những người viếng thăm tỏ lòng thương cảm tự phát, nhất là khi nếu người ta ca ngợi họ biết chịu đựng những bất tiện. Don Bosco không chút gì có chung với cung cách này.

Trong án phong thánh bằng những lời lẽ đơn giản, thầy sư huynh canh thức ngài trong bốn mươi đêm diễn tả cách Don Bosco xử sự: “Ngài thực hành phương châm mà ngài hay lập lại cho tôi khi còn khỏe: - làm việc, chịu đau khổ và thinh lặng -. Thế nên khi không thể làm việc được nữa, ngài chịu đau khổ và thinh lặng”. Thinh lặng, phải được hiểu là thinh lặng về sự đau đớn của ngài, vì rằng khi nào còn có thể, ngài còn dùng lời nói như một phương tiện dùng để làm ích. Một lần duy nhất, hai ngày trước khi qua đời, ngài nói với thầy: “Con ơi, cha đau đớn qúa!”. Nhưng ngài liền nói một câu khác đầy khiêm tốn: “Nếu tiếp tục thế này, cha không biết có chịu nổi không”. Thế rồi, ngài lấy lại sự định tâm, ngước mắt lên trời kêu lên đầy lòng tin: “Xin ý Chúa được thực hiện trong mọi sự”.

Thường theo thói quen, ngài luôn giấu sự đau đớn của ngài, nói những câu khôi hài để làm những người hiện diện đừng chú ý, như khi ngài chịu cuộc giải phẫu mà tôi đã nói tới trong chương IX. Vài phút sau cuộc giải phẫu, ngài trả lời với người hỏi thăm ngài: “Họ đã cắt cha một miếng rất tài tình”. Nhưng người khác thì nói: “Tội nghiệp Don Bosco! Rồi cha sẽ cảm thấy đau đớn lắm”. Nhưng ngài bảo: “Cha tin rằng miếng thịt bị cắt kia không cảm thấy gì đâu”.

Một buổi tối, cha tổng quản lý Don Sala hỏi ngài: “Don Bosco, cha cảm thấy đau lắm phải không?”. Ngài trả lời cách từ tốn: “Ừ, đúng thế. Nhưng mọi sự sẽ qua thôi, cả cái này nữa”. Nghe nói thế, Don Sala hỏi ngài xem có thể làm gì để giúp ngài một chút. Ngài bảo: “Hãy cầu nguyện”. Thế rồi ngài chắp hai tay, hồi tâm cầu nguyện. Ngài trả lời những người tỏ lòng thương hại: “Chúa đã chịu đau khổ hơn cha nhiều”.

Ngài tỏ ra kiên nhẫn trong mọi sự. Bệnh tật kéo dài và đau đớn. Kinh nghiệm cho thấy trong những trường hợp tương tự, ngay cả những tính khí mạnh mẽ cũng có những bùng phát: bởi vì sự lo âu kích động họ. Don Bosco hoàn toàn phó mặc trong tay các bác sĩ chữa trị và các người chăm sóc ngài. Người ta có thể tưởng tượng được sự quan tâm của những người chăm sóc ngài. Người bệnh thì ngược lại, không quan tâm đến mình, tỏ ra hối tiếc vì những hy sinh người ta phải chịu vì mình; và bởi vì chứng đau cột sống làm cho ngài đau đớn khi xoay chuyển, nên những người ấy nhận ra, và ngài để làm cho họ khỏi cảm thấy ái ngại ngài nói những câu vui hài.

Bao bất tiện khi phải chuyển ngài sang một chiếc giường khác! Dù rằng người ta làm điều này một cách hết sức nhẹ nhàng, luôn có những đau đớn không thể tránh được, nhất là vì thiếu những phương tiện thích hợp, và những người làm việc đều không phải là y tá chuyên nghiệp. Người bệnh khốn khổ luôn lặng lẽ, để mặc họ di chuyển và đặt để như một cái máy, thỉnh thoảng thốt ra một lời vui vẻ. Sự thay đổi như thế hầu như phải làm mỗi ngày. Một buổi tối nọ, ngài muốn uống nước, nhưng người ta phải chối từ ngài vì ngài thường xuyên bị nôn: không tỏ ra khó chịu ngài nói rằng: “Cần phải học sống và học chết; học điều này cũng như điều kia”. Về nhu cầu của ngài cần sự nâng đỡ trong những điều tế nhị, cũng không có gì phải nói: thế mà có một lần ngài báo hiệu, bởi vì ngài có điều gì khác thường mà ngài phải cho biết.

Trong tuần lễ cuối cùng khi mà sự khát nước đốt cháy ngài khiến cả nước lẫn nước đá cũng không thể làm hết khát, người ta dùng tới nước có ga. Xem chừng thứ nước này có thể giúp ngài dễ chịu một chút; nhưng ngài, vì nghĩ rằng đó là một thức uống đắt tiền, nên từ chối không dùng. Để làm ngài yên tâm người ta cho ngài thấy rằng một chai gía chỉ 7 xu. Có lẽ hơn lúc nào khác nhận xét của Faber tỏ ra rất phù hợp: “Không có một điều nào phổ biến nơi các thánh hơn là nỗi sợ về chi tiêu, nỗi sợ này gia tăng tỷ lệ với nhu cầu và quyền mà các vị có thể có”.170

Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu xem đâu là những ý nghĩ của ngài. Ở đây về sự kiên nhẫn của ngài, có lẽ đã đủ khi nhấn mạnh tới tinh thần phó thác của ngài trong ý Chúa. Sau cả một cuộc đời hoạt động, dường như ngài phải đứng trước ý nghĩ về những điều tốt có thể tiếp tục hoàn tất, khi phục hồi sức khoẻ. Những người đau ốm thường thích ôm ấp hoài bão này, tưởng tượng rằng khao khát điều đó duy để phục vụ Thiên Chúa ma thôi. Nhưng những linh hồn thánh thiện biết rằng cách thức phục vụ Thiên Chúa tốt nhất là phục vụ Ngài theo cách thức của Ngài, bởi thế, nếu Thiên Chúa muốn họ đau ốm, xin được như thế!

Tâm tình từ bỏ hoàn hảo này là có ở nơi Don Bosco. Tất cả các chứng nhân đều nhất tâm công bố điều này. Thật vậy khi thì bề trên này, khi thì bề trên khác khích lệ xin ngài cầu nguyện để được lành bệnh, vì họ tin rằng nếu ngài cầu nguyện, chắc sẽ được ban ơn. Nhưng ngài không bao giờ đồng ý điều này, thỉnh thoảng ngài lập lại: “Xin cho con theo thánh ý Chúa”. Thậm chí, có người gợi ý cho ngài đọc các lời nguyện tắt, tìm cách thêm vào một cách khéo léo lời cầu: Đức Mẹ Phù Hộ các giáo hữu xin cứu chữa con. Nhưng tới câu này Don Bosco giữ thinh lặng.

Diễn tả sự phó thác của ngài, ngài thường đưa hai cánh tay lên trời, đôi tay chắp lại. Sau đó ngài bị tê liệt cánh tay phải và không thể cử động được nữa, ngài vẫn đưa cánh tay trái lên cao và nói: “Xin thánh ý Chúa được thực hiện”. Đến sau cùng khi không còn nói được nữa, thỉnh thoảng ngài vẫn đưa bàn tay lên, có lẽ là bằng cử chỉ không lời đó lập lại sự dâng hiến thầm lặng cuộc sống lên Chúa.

Don Bosco, vốn cả cuộc đời đã thực hiện phương châm của một tác giả tu đức: “Cuộc đàm thoại của linh mục luôn phải gợi lên ý nghĩ hãy nâng tâm hồn lên”,171 chắc chắn ngài không thể nào quên nó trong những ngày cuối của đời ngài. Nhìn thấy ngài đau đớn, nhưng yên bình trong sự phó thác, tự nó đã là một sự giáo huấn. Dầu sao ngài luôn có những lời sinh ích cho người hiện diện và khích lệ cho những người không có mặt. Những lời ngài có thể nói thực ra rất ít; nhưng trái tim ngài, nên một với Chúa Giêsu, khiến cho giọng ngài rung động tạo nên xúc cảm độ thế.

Với những người luôn gần bên giường bệnh ngài, chẳng hạn như thầy sư huynh nói bên trên và cha thư ký trẻ, Don Viglietti, ngài không chỉ tỏ ra những biểu lộ tình cảm diễn tả lòng biết ơn hay hài lòng, mà còn có những lời khuyên để làm cho sự phục vụ thường nhật của họ có động lực siêu nhiên. Chẳng hạn như, đối với người thứ nhất: “Con mến, hãy nhớ rằng vào cuối đời chúng ta sẽ gặt hoa trái của những việc tốt chúng ta đã làm. Con hãy chăm lo làm việc vì vinh danh Chúa, và Thiên Chúa sẽ trả công cho con xứng đáng”. Đối với người thứ hai, trong tình cha ngài nói: “Nói với mẹ con rằng cha chào mẹ con nhé, rằng mẹ con hãy tìm cách để làm cho gia đình tăng trưởng theo tinh thần Kitô giáo, rằng mẹ con hãy cầu nguyện cho con, để con luôn là một linh mục tốt và cứu được nhiều linh hồn”.

Cứu các linh hồn là một trong những lời gởi gắm thường xuyên nhất của ngài. Một ngày nọ ngài nói với Mons. Cagliero: “Cha xin Chúa một điều duy nhất, đó là cha có thể cứu linh hồn khốn khổ của mình. Cha gởi gắm con nói với tất cả các Salêdiêng rằng họ hãy làm việc với sự nhiệt thành. Làm việc, làm việc! Hãy dấn thân không mệt mỏi để cứu các linh hồn”. Và sau khi chúc lành cho Mẹ bề trên của các con cái Mẹ Phù Hộ ngài nói: “Hãy cứu các linh hồn”. Rồi một lần nữa năm ngày trước khi chết, ngài nói với Cagliero, trong tiếng thì thầm đầy mệt nhọc: “Hãy cứu các linh hồn nơi vùng truyền giáo”.

Cagliero sau đó luôn sung sướng khi nhớ lại và giải thích một cách hứng khởi lời gởi gắm nồng ấm của người cha về sự làm việc. Không phải ngẫu hứng mà Don Bosco chọn lựa lời gởi gắm lời đó vào giây phút cuối đời. Sự cần mẫn làm việc là một trong những truyền thống Salêdiêng chân chính. Người ta có thể mở rộng cho các con cái của Don Bosco lời của Don Marmion cho con cái thánh Benedicto.172

Bộ luật Salêdiêng cũng như luật dòng Benedictin không đề ra những việc đền tội phi thường, chẳng hạn như, mặc áo nhặm, kỷ luật và những điều tương tự; nhưng trong cả hai hội dòng, làm việc cấu thành một hình thức thay cho việc đền tội. Trong Giáo hội, tất cả đều đến với đời tu để tìm kiếm Thiên Chúa. Cả hai Bộ luật đều buộc tìm kiếm Thiên Chúa không chỉ bằng kinh nguyện, nhưng cả bằng làm việc: cầu nguyện và làm việc, và người nào càng làm cho Thiên Chúa được vinh quang thì càng tìm thấy Thiên Chúa, người ấy tôn vinh Ngài bằng sự sẵn sàng dùng sức lực của mình để phục vụ ý Ngài trong đức vâng lời. Đây chính là cái nền của ý nghĩ mà đôi môi của Don Bosco gởi gắm khi ngài đang hấp hối.

Hai hội dòng do ngài thành lập một cách tự nhiên gợi tới sự chú tâm phụ tử của ngài; những lời trăn trối của ngài là nhằm thánh hóa các phần tử, là để họ duy trì ơn gọi và có được hoạt động hiệu quả vì phần rỗi các linh hồn. Khi được hỏi để ban một kỷ niệm cho Con cái Mẹ Phù Hộ ngài trả lời: “Vâng lời, hãy thực hành đức vâng lời và làm cho đức vâng lời được thực hành”. Và khi chỉ còn ba ngày nữa ngài qua đời, ngài nói với Don Bonetti: “Con nghe này. Hãy nói với cac nữ tu rằng, nếu họ tuân giữ Hiến luật, ơn cứu độ của họ được bảo đảm”. Một ngày trước đó, tiếng nói khi đó đã đuối ngài nói với Mons. Cagliero: “Tu hội chẳng có gì phải sợ. Tu hội có những người đã được đào luyện. Hãy yêu mến Tu Hội. Hãy giúp các bề trên khác trong tất cả những gì con có thể”.  Buổi tối hôm đó Don Sala, thấy ngài có vẻ nghỉ nghơi được, như thể muốn làm cho ngài yên tâm nên nói: “Don Bosco, bây giờ cha sẽ được mãn nguyện, cha hãy nghĩ tới sau cuộc đời biết bao lao nhọc và đau khổ, cha đã thành công lập nhiều nhà trên khắp thế giới và lập Tu hội Salêdiêng một cách vững chắc”. Ngài trở lời: “Đúng, những gì cha đã làm, cha đã làm vì Chúa. Cha đã có thể làm nhiều hơn. Nhưng các con cái của cha sẽ làm. Tu hội của chúng ta được Thiên Chúa dẫn dắt và được Đức Mẹ Phù Hộ che chở”.

Đừng ai ngạc nhiên thấy đề cập ở đây lòng sùng kính của Don Bosco đối với vị Đại diện của Chúa Kitô mà ngài tỏ ra bên giường chết. Ngài đã không nghĩ và không dạy rằng Đức thánh cha là mắt xích nối kết con người với Thiên Chúa đó sao? Đức Pio XI làm chứng điều này khi xác nhận rằng chính ngài biết Don Bosco đặt việc trung thành phục vụ Chúa Kitô và Giáo hội, cũng như vị Đại diện của Người trên hết mọi vinh quang.173

Giờ đây giữa lúc bệnh tình đau đớn, trái tim ngài mở ra cho những tâm tình cao qúy vốn đã sinh động ngài trong suốt cuộc sống, ngài bộc lộ với Mons. Cagliero, và nói rằng điều này ngài đã giữ kín cho tới giây phút này: “Tu hội và các Salêdiêng dù bất cứ nơi nào họ ở và làm việc, có mục tiêu đặc biệt là bảo vệ quyền bính của Tòa thánh”.

Ai hiểu biết về thời buổi Don Bosco sống sẽ dễ hiểu vì sao ngài dấu kín trước tai mắt công cộng một điều khoản như thế trong chương trình hành động của ngài. Ngài trở lại vấn đề này khi hồng y Alimonda, tổng giám mục Torino, đến thăm ngài trong bầu khí rất thân tình. Ngài không ra hiệu như muốn bộc lộ một bí mật nữa, nhưng diễn tả một ước muốn, và lời ngài lúc đó mang vẻ long trọng: “Thưa Đức hồng y, con đã trải qua thời kỳ khó khăn. Nhưng quyền bính của Đức thánh cha… quyền bính của Đức thánh cha… Con đã nói điều đó với mons. Cagliero: các Salêdiêng hiện hữu là để bảo vệ quyền bính của Đức thánh cha, bất cứ nơi nào họ làm việc, bất cứ nơi nào họ ở. Xin Đức hồng y nhớ, xin nhớ nói với Đức thánh cha điều đó”.

Hai tháng sau đó, trong buổi cử hành tưởng niệm người quá cố, thuật lại cuộc viếng thăm này và kể lại những lời của ngài, đức hồng y thêm: “Trong những lời đó, con người đáng kính đó đã mở cho tôi coi di chúc của ngài. Tôi nói mở cái gì? Tất cả cuộc sống ngài đã rõ rành lời di chúc đó”. Và khi ngừơi kế vị Don Bosco, trong cuộc hội kiến đầu tiên mà Đức Leo XIII dành cho ngài, nhắc tới tâm tình của người đã khuất, Đức thánh cha kêu lên: “Ồ, đúng Don Bosco là một vị thánh, giống như thánh Phanxicô Assisi khi sắp qua đời đã hết sức khuyên nhủ con cái ngài thảo kính và bảo vệ Giáo hội cũng như thủ lĩnh của Giáo hội Roma. Các con hãy thực hành lời gởi gắm của Đấng sáng lập, và Chúa sẽ không quên chúc lành cho các con”. Chắc chắn ai để tâm tìm hiểu về lòng sùng kính của Don Bosco đối với vị Đại diện Chúa Kitô, sẽ tìm thấy dồi dào chất liệu để chứng minh rằng lòng sùng kính đó rất sâu xa và là một tình yêu nồng nàn cũng như một sự vâng phục tuyệt đối.

Chúng ta còn phải nói về lòng đạo đức nữa, như nó đã được biểu lộ và được nuôi dưỡng bởi kinh nguyện, bởi nguyên lý là các bí tích. Thầy sư huynh vốn luôn ở bên ngài làm chứng trong án phong thánh: “Ngài cầu nguyện hầu như liên lỉ”. Và tới lượt cha thư ký: “Dường như ngài liên lỉ bị thu hút vào trong Thiên Chúa”. Rồi thêm: “Cử chỉ ngài khiêm nhường và sốt sắng, mắt ngài dán chặt vào thánh giá, ngài hôn áo và ảnh Đức Mẹ, vô số các lời kinh nguyện liên lỉ trên đôi môi ngài”. Áo Đức Bà là áo dòng Carmine, do các Salêdiêng đeo cho ngài theo ý ngài khi ngài lâm bệnh và ngài đã được phép mang áo đó. Về thánh giá, ngoài thánh gía mà ngài đeo thường xuyên trên cổ, trong những ngày cuối đời ngài sung sướng có một thánh gía khác, thỉnh thoảng ngài cầm hôn để lãnh ơn toàn xá. Một số người vì thấy ngài đau đớn hơn bình thường, họ khuyên ngài suy nghĩ tới cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu để được an ủi, ngài nói: “Cha luôn làm điều đó”.

Dù các đau đớn xâm chiếm ngài, ngài muốn cha thư ký mỗi buổi sáng đọc kinh với ngài, đọc cho ngài suy niệm và cũng như các bài đọc đạo đức khác. Tất cả các buổi sáng, cho tới ngày lễ thánh Phanxicô Salê, dựa trên gối, ngài tham dự cách sốt sắng thánh lễ do cha thư ký cử hành trong nhà nguyện ngay bệnh cạnh phòng ngài. Trong tháng giêng, ngài thấy mình hay mất trí, nên nói: “Hình như cha luôn cầu nguyện; nhưng mà cha cũng không biết chắc nữa. Xin hãy giúp cha”.

Ngài không chỉ cầu nguyện, nhưng cũng làm cho người ta cầu nguyện. Ban đầu ngài nói với tất cả các bề trên cầu nguyện cho ngài và rồi mời tất cả các Salêdiêng cầu nguyện cho ngài để ngài có thể chết trong ơn nghĩa Chúa, ngài không muốn điều gì khác. Buổi chiều ngày 24 tháng giêng, cảm thấy rất mệt, ngài cho gọi cậu thiếu niên Palestrino người phụ trách phòng thánh mà ngài rất kính trọng, và xin em cầu nguyện cùng Chúa Giêsu và Mẹ Maria cho ngài trong tất cả thời gian rảnh, để ngài đang khi đợi giờ của mình, có thể giữ được đức tin. Sau đó, cậu thiếu niên được dẫn vào với ngài, xúc động ngài nói với cậu như đã nhắn người ta bảo cậu, và rồi chúc lành cho cậu. Đến tối, trái với điều hay xảy ra cho những người đau ốm, ngài cảm thấy được nâng đỡ, việc này ngài nói với Don Lemoyne, đó là nhờ lời cầu nguyện của cậu thiếu niên tốt lành kia. Những ngày sau đó, ngài không nói được nữa, ngài phó thác vào lời cầu nguyện của các người hiện diện.

Biết bao bằng chứng của lòng sùng kính sâu xa ngài tỏ ra đối với Mẹ Maria và Chúa Giêsu thánh thể!  Ngài sung sướng lãnh nhận thường xuyên phép lành Mẹ Phù Hộ theo công thức mà Thánh bộ Nghi lễ đã phê chuẩn. Ngài thường xuyên giữ trong tay chuổi tràng hạt. Một lần hôn ảnh Đức Mẹ, ngài kêu lên: “Cha đã luôn tín thác nơi Mẹ Maria”. Nhưng ngay cả nếu ngài không nói, bất cứ ai quan sát ngài hôn ảnh tượng, đều sẽ có ý nghĩ như thế về ngài.

Khoảng cuối tháng mười hai, ngài nói với nhiều bề trên rằng: “Hãy nhắn nhủ các Salêdiêng về lòng sùng kính Mẹ Maria Phù Hộ và hiệp lễ thường xuyên”. Don Rua nghĩ đó là hoa thiêng gởi đến cho các nhà trong năm mới, và hỏi Don Bosco điều đó. Ngài trả lời: “Trong tất cả cuộc đời”. Rồi ra hiệu đồng ý với ước muốn đã biểu lộ. Một lát sau đó, ngài nói với mons. Cagliero: “Hãy quảng bá lòng sùng kính Mẹ Maria nơi vùng Hỏa địa. Ước gì các con biết được bao nhiêu linh hồn mà Đức Mẹ Phù Hộ muốn cứu rỗi qua các Salêdiêng! Lát sau nữa ngài lại nói thêm: “Những ai muốn được ơn của Mẹ Phù Hộ, họ hãy giúp công cuộc chúng ta tại vùng truyền giáo, họ chắc chắn sẽ được ơn”.

Trong những ngày đầu tháng giêng, đang khi mọi người đều sợ tai họa lớn lao xảy ra, thì bỗng dưng ngài khỏe hơn một chút. Ai nấy đều nhận ra đó là một ơn đặc biệt nhờ lời cầu nguyện từ mọi nơi. Chiều ngày 7 ngài nhờ Don Lemoyne đọc cho cha thư ký một sứ điệp: “Làm sao người ta có thể giải thích được một người, sau hai mươi mốt ngày trên giường bệnh, không ăn uống gì, với một tâm trí đã suy yếu đến tột độ, tới môt lúc lại trở lại, biết được mọi sự và cảm thấy mình khoẻ và hầu như có thể tự mình chỗi dậy, viết, làm việc? Đúng, cha cảm thấy khỏe trong lúc này, như thể chưa bao giờ bị bệnh cả. Để trả lời cho người hỏi tại sao, người ta có thể trả lời thế này: Nhờ quyền năng Thiên Chúa và sự chuyển cầu của Đức Trinh nữ”. Không thể diễn tả nổi niềm vui tràn ngập khắp Nguyện xá đứng trước tin vui không chờ đợi này. Nhiều nơi trong nhà nơi hay qua lại người ta đọc thấy trên những bảng treo, các vần thơ bằng tiếng Latin, tán dương quyền năng cầu bầu của Mẹ Maria.

Ai có thể biết được bao nhiêu lần trong cuộc đời ngài, Don Bosco đã cầu nguyện với Đức Mẹ để xin mẹ trợ giúp để cứu các thanh thiếu niên của ngài, cũng như để thành lập Tu Hội. Trong giây phút thanh thản này, việc hồi nhớ lại biết bao lời khẩn cầu gợi lên cho ngài những cảnh mà ngài đã thấy, trong đó biết bao lần ngài đã  chạy đến với Mẹ Maria.

Một ngày nọ, nhìn thấy cảnh rối ren, ngài vỗ tay kêu lên: “Ồ, mau lên Mẹ Maria, mau tới giúp đám trẻ này!... Mẹ, Mẹ ơi!”. Một ngày khác, khi đang ngủ, người ta nghe thấy ngài kêu lên: “Đây, đám trẻ nghịch ngợm qúa!... Nào, tiến lên, can đảm lên, tiến lên… Mẹ, Mẹ ơi!”. Ngài kêu lên tới cả gần hai chục lần lời cầu khẩn này. Rồi một lát sau, có vẻ bình thản hơn, ngài chắp hai tay, sốt sắng kêu cầu: “Ô Mẹ Maria! Mẹ Maria! Mẹ Maria!”. Gọi tên Đức mẹ trong tâm tình người con là điều rất thường xuyên trong giai đoạn cuối của ngài khi còn tỉnh táo.

Lửa mến của ngài đối với Chúa Giêsu thánh thể tỏa trên khuôn mặt ngài khi lãnh nhận Thánh Thể. Mỗi buổi sáng, trừ ra một ít lần vì không thể giữ chay, ngài đều rước lễ; hầu như mỗi ngày cha giải tội đều thăm ngài, và ngài đều muốn xưng tội. Ngài rước lễ cho tới ngày 29 tháng giêng, lễ thánh Phanxicô Salê. Buổi sáng hôm đó một số người nghĩ rằng không thể cho ngài rước lễ, bởi vì xem ra đã mất trí; nhưng ý kiến ngược lại ưu thế hơn. Người ta cho rằng vào đúng lúc ngài sẽ tỉnh lại. Và đúng thế. Khi được nhắc cho biết Chúa sẽ tới thăm, ngài không động đậy. Nhưng khi vị linh mục đem Bánh thánh lại gần và đọc lớn Mình thánh Chúa Kitô, người bệnh liền cử động, mở đôi mắt, nhìn vào Mình thánh Chúa, chắp hai tay và lãnh nhận Chúa, cầm trí và lập lại lời cám ơn mà Bề trên đang giúp ngài lúc đó đọc.

Đây là lần rước lễ sau cùng của ngài; nhưng ngài đã không chờ đợi lâu mới xin của ăn đàng. Từ ba ngày ngay sau khi phải nằm giường, ngài đã nói với cha thư ký: “Con hãy sửa soạn tất cả để đem của ăn đàng. Chúng ta là Kitô hữu, luôn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa của lễ cuộc sống mình”. Giọng ngài qủa quyết, khiến cho không bề trên nào dám trì hoãn; bởi đó người ta quyết định vào ngày hôm sau, tức là áp lễ Giáng Sinh. Khi mọi sự đã chuẩn bị, người ta báo cho ngài. Khi đó, với vẻ lo âu, ngài nói với những người hiện diện: “Xin giúp cha, giúp cha, rước lấy Chúa Giêsu. Cha cảm thấy bối rối qúa. Trong tay ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con.

Cuộc rước Mình thánh Chúa gồm có một chú giúp lễ và các linh mục và tư giáo có thể tham dự, tiến đến phòng ngài. Lúc nghe tiếng hát, Don Bosco vẫn còn kiệt sức; nhưng khi nhìn thấy Mình thánh Chúa do mons. Cagliero mang tới, ngài bật khóc. Đức cha Cagliero trình bày trong án phong thánh, nói ngài như nhìn thấy thánh Giêrôm Dominichino.

Don Bosco cũng không trì hoãn lãnh nhận xức dầu bệnh nhân. Do sự nài nỉ của ngài, đức cha Cagliero đã ban phép xức dầu ngay buổi tối ngày lãnh của ăn đàng. Trước đó người bệnh bày tỏ ao ước người ta xin cho ngài phép lành tòa thánh, và sự việc đã được tiến hành mau mắn. Khi đã nhận bí tích rồi, ngài không còn nói về điều gì khác ngoài sự vĩnh cửu và các đề tài thiêng liêng.

Ngài khiến mọi người dễ chịu vì sự bình thản của ngài, vốn thường xuyên toả rạng trên khuôn mặt, cung cách và lời nói của ngài. Sự bình thản đó theo ngài cho tới giây phút cuối cùng; còn hơn nữa nó lưu lại trên khuôn mặt ngài ngay cả sau khi đã mất mọi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Tôi không thể không thêm ở đây, rằng, nhìn thấy ngài vào buổi chiều cuối cùng, tôi như còn nhớ mãi như trước mắt hình ảnh dịu hiền ấy. Kê đầu trên gối, khuôn mặt ngài bộc lộ sự yên hàn tinh tế tới độ không gây ấn tượng rằng đó là người đang đi vào hấp hối. Người ta không ngừng nhìn khuôn mặt ngài. Ngay cả sau khi chết, vẻ mặt của người chết giải tỏa một sự cảm thức yên bình dịu dàng, khiến người ta phải kêu lên: Thật là đẹp trước mắt Thiên Chúa và loài người, cái chết của các thánh nhân!

Tôi đã nhắc tới cuộc viếng thăm của hồng y Alimonda. Đức hồng y nói trong buổi lễ tưởng niệm, đối với ngài “tình cảm thúc bách, buộc phải thăm Don Bosco”. Ngạc nhiên khi thấy Don Bosco bình thản trong tâm hồn và đầy suy tư về Thiên Chúa; đến độ khi ra về ngài nói với mons. Cagliero: “Don Bosco luôn ở với Thiên Chúa, ngài luôn kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa”. Dù ngay cả khi cái chết lại gần, và cả chính cái chết nữa, cũng không làm cho các dấu chỉ của sự tiếp xúc thường hằng với Thiên Chúa bị hao mòn.


Chú thích

167 Hun đc thiêng liêng, p. 136. (vers. di D. G. Albera). S.E.I. Torino.

168 Ivi, p. 138.

169 Col. 3, 3.

170 L. c., p. 91.

171 Tanquerey, l. c., n. 615.

172 D. C. Marmion, Đức Kitô ý tưởng của người đan sĩ (vers.) Padova, Antoniana, p. 84.

173 Diễn từ trong buổi tiếp kiến ngày 25 tháng sáu năm 1922 dành cho các học sinh của trường Salêdiêng “Thánh Tâm” Roma.

Chương XVIII. Ơn cầu nguyệnChương XX. Viên ngọc của hàng tư tế