Chương XVIII. Ơn cầu nguyện
Các hiện tượng phi thường được miêu tả cho tới đây là những dấu chỉ kỳ diệu bên ngoài, cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong linh hồn. Thiên Chúa sống trong chúng ta khi chúng ta hợp nhất với Ngài nhờ ơn sủng; nhưng trong một số các linh hồn nào đó, theo như các nhà thần bí giải thích, Ngài làm cho nghiệm thấy bằng việc chạm một cách đặc biệt tới chính yếu tính của tinh thần của người ấy. Khi đó xảy ra sự kiện là, đang khi các chức năng cao cấp của trí năng và ý chí bị thu hút bởi ánh sáng và bởi hoạt động thần linh, thì các giác quan giảm bớt và như không còn hoạt động, đúng như khi xảy ra trong khi xuất thần.
Những điều này không xảy ra đối với nhân tính của Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong đời sống trần gian của các Ngài; bởi vì dù hưởng cách thường hằng sự hiểu biết thực nghiệm của đời sống siêu nhiên, tuy nhiên, vì sự hội nhập hoàn hảo của các giác quan vào lý trí, nên các ngài không bị mất những năng lực cấp thấp này.
Thế thì chúng ta tự hỏi: vì rằng Don Bosco tỏ ra những biểu lộ bên ngoài thông thường của đời sống thần nhiệm, người ta có thể một cách chắc chắn cho rằng ngài thực sự đã được nâng lên mức độ kết hợp thần nhiệm hay không? Nói cách khác, vì sự việc được thực hiện qua sự chiêm niệm thần linh, có thể đi tới chỗ khám phá ra nếu có và trong mức độ nào ơn chiêm niệm thần linh đã trang điểm cho linh hồn ưu tuyển của Don Bosco?
Nói cách tiên thiên, xem chừng không táo bạo khi khẳng định về thực tại tính của sự việc. Thực vậy, Đức Benedicto XIV, dựa vào lịch sử, cho rằng mình có thể qủa quyết rằng “hầu hết tất cả các thánh và đặc biệt các thánh sáng lập dòng đều đã nhận được thị kiến thần linh và sự mạc khải” và ngài thêm rằng: “Không nghi ngờ gì Thiên Chúa nói cách thân mật với các bạn hữu của ngài và ban ơn đặc biệt cho những ai ngài đã chọn để thực hiện những công cuộc vĩ đại”.139
Poulain, sau khi khẳng định rằng thông thường, trường hợp các vị thánh đã được tôn phong, họ đã đạt tới mức độ nhân đức anh hùng, họ được ban ơn kết hiệp thần nhiệm, và trường hợp, nếu như xem ra có vị nào thiếu điều này, người ta đã không thể chứng minh cách tích cực rằng thực sự thiếu, đúng hơn cần phải chứng tỏ rằng thiếu các tài liệu minh chứng lịch sử.140 May mắn thay các sự thận trọng về Don Bosco không đủ để khiến chúng ta bác bỏ tất cả những biểu lộ bên ngoài của đời sống thần nhiệm của ngài, như thế chúng ta cũng không thiếu các luận chứng hậu nghiệm.
Đúng hơn người ta thích có một sự chắc chắn khi xác định mức độ của sự kết hiệp thần nhiệm của ngài với Thiên Chúa. Sau một cuộc khảo sát chín chắn có vẻ như, không kể các giây phút đặc biệt trong đó mức độ mạnh mẽ có thể nổi bật, chúng ta tin rằng sự việc cho thấy ngài thường hằng có ơn cầu nguyện, ơn mà như thánh Têrêsa gọi là sự kết hiệp toàn thể, Poulain gọi là sự kết hiệp tròn đầy, và các vị khác nhất là người Ý, như Scaramelli và thánh Alfonso Liguori gọi đó là sự kết hiệp đơn thuần. Thánh Alfonso diễn tả thế này: “Trong sự kết hiệp đơn thuần, các năng lực ngưng lại, không còn các giác quan thân xác nữa, vì rằng các hoạt động của chúng đã bị ngăn lại”.141
Thế nên ơn cầu nguyện như thế cho thấy hai tính chất: linh hồn hoàn toàn bị thu hút bởi đối tượng thần linh khiến cho không còn ý nghĩ nào có thể làm nó chú ý nữa, nói cách khác, không bị chia trí; đang khi đó các giác quan tiếp tục hơn kém vẫn hoạt động, khả năng liên lạc với thế giới không bị tước bỏ, người đó vẫn có thể thấy, nghe, nói, bước đi và bởi đó cũng có thể tự ý ra khỏi tình trạng cầu nguyện của mình. Một số tác giả thần bí thế giá, rút ra từ thánh Toma những ý niệm nền tảng về vấn đề tế nhị này, đã trình bày và kể ra bảy hiệu qủa của sự kết hiệp đơn thuần.142 Phần chúng ta để tránh nguy cơ đi xa, giờ đây chúng ta khảo sát chúng như được thấy nơi Don Bosco.
Tuy nhiên bản chất của vấn đề khuyên chúng ta không nên tiến hành trước khi trình bày một ý niệm liên quan, mà có lẽ độc giả đã rút ra cho mình từ những điều đã trình bày bên trên, dù có thể còn mơ hồ. Linh hồn của Don Bosco không ngừng sinh hoa trái do sự kết hiệp với Thiên Chúa; thật vậy dường như đây chính là ơn ngài nhận được, tức là không bao giờ để mình bị chia trí khỏi ý nghĩ yêu mến Chúa, dù rằng có nhiều công việc và nhiều lo lắng.
Chúng ta rảo qua bộ Summarium trình bày về các nhân đức của Don Bosco, trong tiết thứ bảy Về đức ái anh hùng đặt nơi Thiên Chúa người ta thu thập khoảng chừng hơn mười chứng từ rất giá trị liên quan đến đề tài, bởi vì điều được trình bày về Don Bosco là bởi những người, theo như lời thánh Gioan trong thư nhất: Điều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm tới… chúng tôi làm chứng và loan báo.
Những người đầu tiên phải nói với chúng ta chính là ba người kế vị Don Bosco. Don Michele Rua, người đã khởi đầu tiến hành án phong chân phước, nói: “Điều mà tôi liên tục có thể nhận thấy đó là sự kết hợp liên lỉ của ngài với Thiên Chúa… Các tâm tình yêu mến Thiên Chúa của ngài diễn tả một cách tự phát, điều mà người ta thấy là phát xuất từ một tâm trí và một con tim chìm ngập trong sự chiêm ngắm Thiên Chúa”. Don Paolo Albera:143 “Sự kết hợp của Đấng đáng kính với Thiên Chúa rất là nhiều đến độ dường như ngài nhận được từ Thiên Chúa ơn soi sáng và sự khích lệ để giúp cho con cái mình”. Don Philip Rinaldi: “Đây là sự xác tín nội tâm của tôi, đó là Đấng đáng kính đúng là người của Thiên Chúa, liên lỉ kết hợp với Thiên Chúa trong kinh nguyện”.144 Cùng với ba bề trên cả có chứng từ của Don Giovanni Battista Francesia: “Tôi thấy rằng vị Đấng đáng kính rất dễ dàng thu tâm trí tới Chúa”.
Tới đây chúng ta nghe chứng từ của bảy tu sĩ Salêdiêng khác rất đáng kính về nhân đức và học thức cũng như chức vụ. Sự trình bày của họ cho chúng ta thấy rằng: “cuộc sống của Don Bosco tỏ lộ một sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa” đến nỗi “trong bất cứ giây phút nào người ta hỏi ngài, ngay cả giữa lúc làm việc rất căng thẳng và rất chia trí, ngài đều trả lời như một người đang trong giây phút chiêm niệm”; rằng “tình mến dành cho Thiên Chúa tỏa sáng trong sự kết hợp của ngài với Thiên Chúa”; rằng “ngài luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa” và “suy nghĩ của ngài luôn luôn hướng về Chúa”; rằng “người ta có thể nói rằng nơi ngài tâm nguyện như là một thực hành tự bản tính”; rằng “ngài có một trái tim đầy tình mến Chúa, đến độ tư tưởng, lời nói của ngài luôn hướng tới Chúa”; rằng “Đấng đáng kính luôn tỏ ra một tinh thần cầu nguyện cũng như kết hợp với Thiên Chúa chân thực và sâu xa, như thể đó là một dữ kiện mà mỗi khi con cái ngài tới gần đều nhận thấy”; rằng “ngài có một sự kết hiệp hoàn hảo trong tinh thần với Thiên Chúa”.
Sau cùng có chứng từ của hai vị giáo chủ. Monsignor Tasso, thuộc dòng các cha truyền giáo, giám mục Aosta, và là học sinh của Don Bosco từ năm 1861 tới 1865, nói: “Đấng đáng kính luôn cháy lửa mến đối với Thiên Chúa, và tôi đây tin chắc rằng ngài sống trong sự kết hợp liên lỉ với Thiên Chúa. Tôi nhớ rằng giữa thanh thiếu niên chúng tôi ai nấy đều có sự xác tín này, rằng Đấng đáng kính nói chuyện trực tiếp với Chúa, đặc biệt khi ngài cho chúng tôi lời khuyên liên quan đến tương lai của chúng tôi”.
Hồng y Cagliero làm chứng: “Tình yêu Thiên Chúa… chiếu tỏa từ khuôn mặt ngài, từ toàn thân ngài và tất cả các lời của ngài, những lời mà xuất từ trong trái tim ngài mỗi khi nói về Thiên Chúa trên toà giảng, trong toà giải tội, trong các diễn đàn công cộng và riêng tư, cũng như trong lúc trò chuyện thân tình. Tình yêu này là nỗi ao ước duy nhất, là hơi thở duy nhất, là khát mong nóng bỏng nhất của tất cả cuộc sống ngài. Tôi đã nghe ngài lập đi lập lại cả ngàn lần: - Tất cả vì Chúa và vì vinh quang Người! – Ngài luôn ở trong sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, khi ngài tiếp khách, khi ngồi ở bàn làm việc, khi tiếp xúc với chúng tôi trong giờ giải trí, khi cầu nguyện ngài sốt sắng như một thiên thần bên Chúa Giêsu thánh thể… Trong bất kỳ lúc nào chúng tôi lại gần ngài, ngài đều đón tiếp chúng tôi với đức ái nồng hậu và một sự đáng yêu rất thanh thản, như thể ngài vừa ra khỏi kinh nguyện chìm ngập hay vừa gặp được Thiên Chúa… Tôi muốn lập lại điều hồng y Alimonda đã nói với tôi, rằng Don Bosco luôn luôn ở trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa”.
Có bao nhiêu là chữ “luôn luôn” ở trong các trình bày của những vị này! Vị hồng y nhiều uy thế, tức là, tổng giám mục Torino, đã an ủi rất nhiều sáu năm cuối cùng của người cha chúng ta của chúng ta, ngài thường lập lại ý tưởng đã nói cho Cagliero và cũng là ý tưởng trong diễn từ kỷ niệm 30 ngày đám tang, định nghĩa Don Bosco là người “luôn kết hiệp với Thiên Chúa”.
Chúng ta kết thúc những chứng từ này với nhận xét nhiệt tình của Đức Pio XI. Đức thánh cha vốn thích nhắc tới một cách công khai với sự thích thú vì đã được tiếp xúc gần gũi chứ không chỉ ghé qua với Don Bosco. Ngài khẳng định đã nhận ra “trong mọi hành động ngay cả khi không lộ liễu” nơi Don Bosco “một tinh thần hồi tâm, bình thản, an bình lạ lùng. Không phải sự an bình chỉ vì thinh lặng, nhưng là sự thanh bình của một tinh thần gặp gỡ Thiên Chúa, ngài luôn luôn chú tâm tới cái mà linh hồn ngài cảm nghiệm: sự hiện diện của Thiên Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa”.145
Để kết luận, như một sử gia đã viết về thánh Bonaventura rằng trong các tác phẩm của ngài, ngài làm cho mỗi chân lý trở thành một kinh nguyện, đối với Don Bosco cũng thế, người ta phải áp dụng khẳng định này cho mỗi hành vi trong cuộc sống ngài: bất cứ điều gì ngài làm, đều là một kinh nguyện.
Hàng ngũ những chứng nhân đã giúp chúng ta rút ngắn hành trình. Nhưng sự rút ngắn không làm cản trở việc rút ra những giải đáp phù hợp, mà chúng ta sẽ vạch ra về bảy hiệu qủa của sự kết hiệp đơn thuần đã nói bên trên.
Hiệu quả thứ nhất của sự cầu nguyện hay sự kết hiệp đơn thuần đó là nên một, điều mà hầu như bằng chứng không thể động tới. Chúng ta có thể gọi nó bằng cái tên: sự hoà tan, một từ ngữ gợi ý từ câu kinh thánh:146 Linh hồn tôi tan chảy vừa khi người yêu tôi nói.147 Người ta có thể nói tới một sự tiêu hủy của trái tim trước ngọn lửa đức mến bừng cháy hoặc, nếu không muốn nói theo kiểu biểu tượng, một cảm xúc ngọt ngào về tình yêu Thiên Chúa, đổ đầy trong linh hồn niềm vui không thể diễn tả cho tới độ làm phát sinh nơi thân xác một cảm giác cạn kiệt, đến độ có khi làm bất tỉnh. Những hiện tượng khả giác như thế có khi nào được nhìn thấy nơi Don Bosco không? Chúng ta sẽ trả lời với hai nhận xét tổng quát và ba sự kiện riêng biệt.
Nhận xét thứ nhất: giữa các hoa trái của sự chiêm niệm, một trong những hoa trái dễ thấy hơn cả đó là đức khiêm nhường. Người chiêm niệm là người hơn ai hết hiểu được sự vĩ đại của Thiên Chúa và có một cảm thức mạnh về sự hư không của chính mình; bởi thế, không chỉ vui vì ơn Thiên Chúa, họ còn cảm thấy sợ vì điều mình có vẻ biết và nếu không xin soi sáng họ sẽ không biết sống thế nào nữa, hơn nữa họ sử dụng mọi phương tiện để giữ lại nơi mình sự tròn đầy của tình yêu. Nếu không có điều đó thì ý chí của người ấy không thể, ngoài ra ngay cả tính khí cũng có phần của nó nữa. Ân sủng hoạt động trong cái tự nhiên, nhưng không tiêu hủy cái tự nhiên. Về Luigi Comollo chúng ta đã thấy rằng, nếu sau khi rước lễ không để bộc phát ra những cảm xúc chất chứa, có lẽ trái tim thầy sẽ bể ra mất. Don Bosco thay vào đó lại trấn áp cái sức mạnh của sự sốt sắng của mình, và muốn rằng bạn mình củng phải làm như thế; thế nhưng sự cưỡng bức thể lý của bạn ngài không như là của ngài.
Rồi tới nhận xét thứ hai. Don Bosco làm chủ thần kinh của ngài, Don Bosco con người sắt thép, hoặc nói theo một ngôn từ bớt phàm tục, Don Bosco là người có thể áp dụng cho mình lời của vịnh gia: Linh hồn tôi luôn ở trong tay tôi,148 có một ý chí chủ trị các năng lực cấp thấp để phục vụ cho đức khiêm nhường, và do đó ngài có khả năng trấn tĩnh sức mạnh của cảm tính để chúng khỏi đi qúa mức. Bởi đó chỉ sự thiếu vắng những hiện tượng bên ngoài, như đã đề cập, không thể là luận chứng quyết định để phủ nhận ngài có ơn chiêm niệm siêu nhiên.
Ngoài ra, làm sao có thể giải thích được một người, khi đụng chạm, hơn nữa bị đâm thâu bởi sự đau khổ dữ dằn đến độ con tim rướm máu, lại tỏ ra vui tươi hơn khi bình thường? Các đau khổ làm phát sinh niềm phấn khởi chăng? Không, nhưng sự đau đớn nâng tâm trí con người tới sự chiêm niệm, một cách thần nhiệm nó biến đổi thành tình yêu, và tình yêu là cái làm con tim vui sướng. Đây chính là sự kiện thứ nhất trong ba sự kiện.
Sự kiện thứ hai là trong những năm cuối đời Don Bosco sau những buổi sáng dành trọn để tiếp những người tới thăm, thường dành ít là một giờ vào ban chiều trong phòng riêng, nơi những người có nhiệm vụ chăm sóc ngài thấy ngài ngồi tại bàn làm việc, thân mình thẳng, hai tay chắp lại trong một dáng vẻ dịu dàng, thu lại trong sự chiêm niệm những sự trên trời.149 Đó chính là giờ mà người nữ tu trong chương trước thấy ngài xuất thần.
Cũng thế trong những năm cuối đời, - chúng ta đang nói về sự kiện thứ ba -, khi mà vì sức lực cạn kiệt, cảm xúc lại hoạt động hơn, trong giờ cử hành thánh lễ toàn thể con người ngài xúc động một cách rõ rệt, như một người bị xâm chiếm bởi rung động thánh, nhất là những khi được nâng cao.150
Để nhấn mạnh và minh họa rõ hơn, chúng ta mang ra đây chứng từ của Don Cerruti trong giai đoạn khởi đầu của tiến trình phong thánh. Nói về hai năm cuối đời của vị thánh của chúng ta, ngài trình bày: “Khi ngài bị nhức đầu và ngực, cũng như đôi mắt trở nên mờ không cho phép ngài làm việc nữa, thật là cảnh tượng đau lòng và cảm động nhìn thấy ngài trải qua hằng giờ ngồi trên ghế, trong một nơi hơi thiếu ánh sáng, bởi vì mắt ngài không chịu nổi ánh sáng, nhưng ngài luôn bình thản và mỉn cười, tràng hạt trong tay miệng ngài mấp máy đọc kinh và đôi bàn tay di chuyển như diễn tả bằng ngôn ngữ không lời sự kết hợp và sự tùng phục ý Thiên Chúa, điều mà ngài vì quá mệt không thể phát ra lời được nữa. Về phần tôi, tôi tin hoàn toàn bị thuyết phục rằng cuộc sống ngài, đặc biệt trong những năm cuối đời, là một lời kinh nguyện liên lỉ dâng lên Chúa. Cả những người khác cũng nghĩ như tôi. Thật thế, vào trong phòng ngài để thăm ngài và nói với ngài, chúng tôi thấy ngài luôn như người chú tâm vào một sự suy niệm sâu thẳm nhất dù không một dấu hiệu bên ngoài, khuôn mặt ngài luôn vui tươi, bình thản và an bình, lời từ miệng ngài là lời của sự bình an, đức ái và đức tin”.151
Hiệu qủa thứ hai của kinh nguyện thu động là một nhu cầu êm dịu cảm thấy muốn khóc. Thánh Caterina Siena diễn tả rằng trong sự kết hiệp mật thiết của linh hồn với Thiên Chúa, nhận thức yêu thương về lòng nhân lành thần linh đánh thức những cảm xúc ngọt ngào và sống động của trái tim, vì trái tim không hiểu nổi mình nữa nên nó nhờ tới sự trợ giúp của đôi mắt.152 Nơi Don Bosco ngài cũng có ơn cảm xúc bật khóc, mà năng lực của ngài không có sức ra lệnh cho nó ngừng lại.
Trong hành trình cuối cùng ở Roma, đang khi cử hành thánh lễ trong ngôi nhà thờ mới dâng kính Thánh Tâm, hơn mười năm lần ngài bật khóc, đang khi vị linh mục giúp ngài tìm cách để làm ngài tỉnh lại để có thể kết thúc thánh lễ. Ngài còn khóc lần nữa sau đó trong sự xúc động của nhiều người đứng quanh ngài. Trong cuộc đời linh mục của ngài, khi giảng về một số đề tài để tránh khóc vì xúc động, ngài tìm cách đưa vào những chuyện vui nhưng vô hại.153 Tuy nhiên nước mắt của ngài lại là một điều ích lợi lớn lao cho những ai chứng kiến, có lẽ Chúa quan phòng đã định cho Don Bosco không thể kìm hãm được nước mắt như thế. Còn rất nhiều nguồn thông tin khác, tuy nhiên chúng ta không thấy cần trưng dẫn thêm nơi đây.
Hiệu qủa thứ ba đó là cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa một cách chắc chắn, loại trừ khả thể có bất cứ sự nghi ngờ nào. Thánh Têrêsa làm sáng tỏ điều này như sau: “Thiên Chúa tới cư ngụ trong thâm cung của linh hồn, khiến khi linh hồn đi vào trong chính mình, nó không thấy chút nghi ngờ gì rằng mình đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa đang ở trong mình. Chân lý được ghi khắc không phai mờ trong linh hồn đến độ ngay cả dù nhiều năm nó không được nâng cao tới độ chiêm ngưỡng, nó vẫn không thể quên được ơn đã lãnh nhận cũng như không quên thực tại của điều đó”.154
Tâm trí Don Bosco luôn đầy ắp những suy nghĩ về Thiên Chúa: tìm cách chứng minh điều đó, có lẽ cũng chỉ là lập lại. Monsignor Tasso nói về vẻ thu hút của ngài như sau: “Chỉ cần tiếp xúc với ngài một chút thôi, người ta lập tức nhận ra ngay ngài qủa là người của Thiên Chúa; cái siêu nhiên tỏa ra từ mọi lời của ngài và từ tất cả con người ngài. Điều này tôi cảm được bằng chính kinh nghiệm của mình”.155
Hiệu quả thứ tư: sức mạnh, sự can đảm, sự kiên nhẫn không nao núng trước mọi đau khổ vì yêu mến Thiên Chúa. Hơn nữa, các linh hồn này cháy lửa tình yêu Thiên Chúa còn ao ước chịu đau khổ vì Thiên Chúa; sự ao ước này càng ngày càng lớn cùng với ước muốn thuộc về Thiên Chúa. Nơi Don Bosco đúng thật như thế. Các trang đã viết bên trên qủa thật đã ca ngợi sự qủa cảm của ngài giữa những đau khổ; tuy nhiên ở đây có hai nhân chứng lên tiếng nói với chúng ta.
Thứ nhất, liên quan đến các đau khổ luân lý, vị Đầy tớ Chúa Don Rua kể như sau: “Sự kiên nhẫn, sự sẵn sàng chịu đau khổ, sự can đảm của ngài luôn đáng thán phục. Có vẻ như các khó khăn và các nỗi quẫn bách làm gia tăng sức mạnh cho ngài, đến độ rằng, dù đau đớn, nhất là khi các chống đối đến từ phía giáo quyền, ngài không bao giờ đánh mất sự bình thản; trái lại chính trong những lúc quẫn bách ngài lại có thêm sự can đảm; thậm chí người ta thấy ngài có vẻ vui hơn và khôi hài hơn bình thường”.156 Rồi tới các đau khổ thể lý, như chúng ta đã thấy, rất nhiều và nghiêm trọng, nhà viết sử Don Lemoyne chứng thực: “Ngài không bao giờ cầu nguyện để được lành bệnh, và như thế các đau khổ của ngài trở thành tự nguyện. Ngài không khi nào ca thán và tỏ bất kiên nhẫn, đồng thời cứ tiếp tục làm việc”.157
Hiệu qủa thứ năm, một ao ước bừng cháy để ca ngợi Thiên Chúa. Người bị thiêu đốt bởi lửa tình yêu Thiên Chúa không muốn mình trở nên gì khác hơn là lời ca ngợi Thiên Chúa; hơn nữa còn muốn Thiên Chúa được mọi người biết, yêu mến và tôn vinh. Người ấy biết rằng Thiên Chúa thì lớn hơn mọi lời ca tụng; tuy nhiên đối với cảm thức về sự vĩ đại và lòng nhân lành của Thiên Chúa không có niềm vui nào khác hơn là tôn vinh, thờ lạy và cảm tạ Thiên Chúa.
Vị thánh sốt mến thành Assisi, để thoả mãn sự khao khát nồng cháy này, đã kêu mời tất cả tạo vật, cả những loài không có trí khôn, không có linh hồn, không có tri giác, để chúng hợp tiếng với ngài ca tụng Đấng tạo hóa. Nhưng trong Giáo hội còn có một sự đa dạng phong phú khác do thánh Phanxicô Salê đem lại. Về cốt lõi vô giá không thể thiếu của đức ái khi giải thích về sự muôn vẻ diệu kỳ nơi các thánh, ngài nói: “tất cả đều thuộc về tình yêu, trong tình yêu, cho tình yêu và là tình yêu trong lòng Giáo hội”.158
Là một linh hồn say mến Thiên Chúa, Don Bosco có ba cách thức để mời và kích thích mọi người ca ngợi Thiên Chúa: chuyên cần chăm sóc một cách kỹ lưỡng việc thờ phượng thần linh; nói về sự kết hiệp với Thiên Chúa và về các sự thần linh cho tất cả những người gặp ngài dù chỉ tình cờ gặp trong những giây phút ngắn ngủi; hiến thân với một sự nhiệt thành không mệt mỏi để cổ võ không ngừng vinh quang Thiên Chúa.
Ba điều này, đặc biệt điều sau cùng vốn có tính bao trùm tất cả, cống hiến cho chúng ta một chất liệu rất phong phú để viết. Dầu vậy đứng trước một sự đào sâu lịch sử sâu rộng, điều được trình bày cho tới đây, xem ra chưa được tập trung đúng mức.
Hiệu qủa thứ sáu, sự ao ước mạnh mẽ làm ích cho tha nhân. Linh hồn sống bởi Thiên Chúa, thường thành công để làm mình trở nên hữu ích cho tha nhân ngay cả dù họ không nhận ra điều đó. Như lời thánh Toma, trong hành động hoặc khi tiếp nhận hoặc khi an ủi hoặc khi cứu trợ, ba cách thức giúp đỡ người thiếu thốn, một cách mầu nhiệm họ nhận được sự trợ giúp của Thiên Chúa, điều làm cho công việc của họ nên hữu hiệu.159
Nói về Don Bosco là nói về đức ái: một đức ái không vơi cạn khi đối xử với cận nhân, một đức ái không thể diễn tả khi nâng kẻ đau khổ chỗi dậy, khi an ủi kẻ sinh thì, một đức ái anh hùng khi tìm kiếm các phương tiện để thực thi đức ái. Chính do điều này, thế giới yêu mến Don Bosco: chúng tôi tin vào đức ái.[160]
Về đức ái siêu nhiên này thật thích thú đọc nơi đây suy tư cô đọng của người được gọi là alter ego của Don Bosco và cùng với Don Bosco trong biết bao nhiêu năm gánh vác: “Cuộc đời của ngài đã tiêu hao vì thực thi đức ái. Đức ái của ngài phần nào đó người ta có thể nói là một ân huệ bởi thánh ý Thiên Chúa, rồi đến lượt mình, nó lớn lên và hoàn hảo cùng với thời gian… Ngài nhìn thấy nơi tha nhân của mình công trình của Thiên Chúa và nhìn thấy chính Thiên Chúa nơi tha nhân, ngài nhìn từng người như một người anh em trong Chúa Giêsu Kitô, bởi thế ngài yêu mến họ vì tình yêu Thiên Chúa và dùng tất cả sự bận tâm của mình để kéo mọi người tới Thiên Chúa. Không phải cách đơn giản là một sự thiện cảm tự nhiên, nhưng chính tình yêu Thiên Chúa, chính đức ái của Chúa Giêsu Kitô kích thích ngài tiêu hao tất cả bản thân mình cho tha nhân”.161
Hiệu quả thứ bảy và cũng là cuối cùng của kinh nguyện đơn thuần, và cũng là hiệu qủa kỳ diệu nhất nơi một kẻ thuộc dòng dõi Adam, đó là sự thực hành thường hằng các nhân đức đối thần, các nhân đức làm đầu và các nhân đức luân lý ở mức độ anh hùng, tức là ở một tầm mức và một cường độ cũng như sự bền bỉ vượt ra bên ngoài những giới hạn thông thường nơi những người nhân đức. Thiên Chúa ban xuống cách rộng lượng các ơn huệ cho một linh hồn, làm cho nó nên dư dật về mọi nhân đức để Giáo hội được xây dựng và được vinh quang; tới mức độ anh hùng trong việc thực thi các nhân đức Kitô hữu. Đứng trước sự tuôn đổ ơn sủng thần linh, linh hồn không dành lại điều gì khác ngoài việc cộng tác một cách đơn thuần.
Sự cộng tác đơn thuần không tạo nên nguy cơ kiêu ngạo, bởi vì nó đã quên đi chính bản thân của mình. Còn hơn nữa càng lên cao trong sự nhận thức say mến về Thiên Chúa, thì linh hồn càng thấy mình trở nên hư không. Thế nên, khi tăng trưởng sự khiêm nhường, thì cũng tăng trưởng các ơn huệ và đồng thời tăng thêm đà lực hăng say hữu hình đối với các nhân đức.
Về điểm này đáng lưu tâm đến nhận xét của Poulain: “Thiên Chúa không chỉ đến trong linh hồn. Khi mà kinh nguyện càng đạt mức độ cao, thì hành động thánh hóa của Ngài càng lớn hơn và hữu hình hơn. Linh hồn tràn ngập Thiên Chúa trong sự kết hiệp thần bí, thì cũng cảm thấy mình tràn ngập lòng mến, sự khiêm nhường, tinh thần hy sinh… Chính Thiên Chúa ban cho nó nhiều cơ hội để thực thi, gởi tới cho nó hết thử thách này tới thử thách khác: cám dỗ, bệnh tật, thất bại, bất công, khinh chê”.162
Bắt đầu bàn luận về sự anh hùng của các nhân đức nơi Don Bosco sau khi Giáo hội đã công bố điều đó, có lẽ là đem nước đổ vào biển. Tuy nhiên, có điểm đáng được nhấn mạnh để thấy rõ: sự bộc phát trong giai đoạn cuối đời như đã đề cập bên trên. Cuộc sống trên trần của Don Bosco đã nghiệm thấy sự can thiệp của Thiên Chúa trong muôn vẻ và không gián đoạn đã được tác gỉa làm nổi bật. Giờ đây chúng ta chú ý tới giáo huấn của thánh Phaolô khi ngài viết: “Thiên Chúa đánh phạt những đứa con mà ngài thương”.163 Kiểu nói này, vốn khó nghe đối với người trần tục, có nghĩa rằng mọi nỗi quẫn bách, là những phương tiện mà Thiên Chúa dùng để thanh luyện và đưa linh hồn tiến lên trên đường trọn lành, là một bằng chứng của tình yêu của Thiên Chúa. Những bằng chứng đó Don Bosco đã nhận được trong suốt hành trình cuộc sống của ngài; đối lại, các bằng chứng từ phía Don Bosco tỏ ra trước Thiên Chúa cũng tương tự, khi ngài thực hành mọi nhân đức giữa những thập gía gặp phải, từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc cuộc đời. Cuộc sống ngài xuất hiện trước chúng ta là một sự trong suốt sáng tỏ, tất cả đều có thể được chúng ta xem xét; dù chúng ta chẳng khám phá nơi ngài có gì là không thánh thiện.
Chúng ta kết thúc điểm này với những lời của hồng y Cagliero: “Sự anh hùng của các nhân đức mà ngài thực hành trong thời thiếu niên và tuổi trẻ được làm chứng bởi những người cùng quê của tôi; tất cả các hội viên, những người mục kích cuộc sống ngài như là linh mục, là giám đốc Nguyện xá và là bề trên của Tu hội đều minh xác với tôi… Từ Mỹ châu trở về, tôi gặp được vị Đầy tớ Chúa nhạy cảm, bừng cháy trong đức ái, kết hợp với Thiên Chúa và mang vẻ nhân hậu thiêng liêng rất nhiều; hơn nữa tôi còn thấy, nếu đó không phải là do tình cảm con cái của tôi đánh lừa tôi, tuổi tác đáng kính của ngài như được bao quanh bằng hào quang và mang một diện mạo thiên thần, có vẻ như cuộc sống của ngài đã được tôn vinh rồi, một cuộc đời đã tiêu hao trong hy sinh bản thân vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn”.164
Một nhận định khác nữa thêm ở đây. Vậy phải chăng Don Bosco là một nhà thần bí? Chúng ta biết rõ rằng đối với không ít người, điều này qủa là một ý tưởng mông lung; tuy nhiên có điều chắc chắn rằng tội lỗi thì không thuộc về thần bí. Có hai ý tưởng sai lầm lôi kéo tâm trí của những người trần tục. Họ tin rằng thần bí thì phản nghĩa với cái thực, đang khi nó chỉ nghịch nghĩa với cái thể lý, nghĩa là cái tự nhiên. Người ta gọi là thần bí cái cấu thành thực tại siêu nhiên. Như thế người ta có thể tưởng tượng được rằng, những người được gọi là thần bí là những người sống như bị hút vào trong sự chiêm niệm những điều mà thế giới này không thể thấy cũng như không thể hiểu được.165
Ngược lại, một tác giả viết về đề tài này, đã bàn về các diện mạo của các nhà thần bí như sau: “Các nhà thần bí đích thực là những con người của thực tiễn và hành động, không phải là của sự suy lý và lý thuyết. Họ có cảm thức về sự tổ chức, có ơn để điều khiển và tỏ ra là có những tài năng để làm việc. Các công cuộc do họ sáng lập thì sống động và bền bỉ; khi hình thành và điều hành các công cuộc họ tỏ ra là những con người thận trọng và hăng hái cũng như hiểu được khả thể tính của sự việc, điều vốn là đặc tính của người có cảm thức tốt. Thực vậy dường như cảm thức tốt là một phẩm tính ưu trổi của họ: cảm thức tốt thì không bị giao động bởi sự tán dương bệnh hoạn cũng không bị chi phối bởi sự tưởng tượng vô trật tự, cảm thức tốt thì gắn liền với năng lực hiếm hoi về biện phân”. Điều này, nếu tôi không lừa dối chính mình, chính là diễn tả sống động chân dung của Don Bosco, trong đó sự chiêm niệm soi sáng và hướng dẫn hành động.
Donoso Cortes nói rằng, nếu ông phải bàn với một nhà ngoại giao nào đó về một vấn đề gai góc, có lẽ ông sẽ tìm bàn hỏi và xin hướng dẫn của một nhà thần bí. Ai có thể thần bí hơn thánh Bernardo? Ấy thế mà, ngài lại bận rộn về mọi sự và mọi người, đến độ không thể viết lại chuyện cuộc đời mình mà không viết về chuyện của thời cuộc. Và thánh Têrêsa cũng như bao nhiêu thánh khác? Người ta có thể áp dụng cho Don Bosco điều đã nói về thánh Bernardo, luôn luôn bận rộn về rất nhiều công việc: “Trong cuộc sống ngài, những cái ở ngoại vi không làm khó chịu cái ở trung tâm, và cái ở trung tâm không gây khó chịu cho cái ở ngoại vi”.166 Cái ngoại vi chính là hoạt động bên ngoài, cái trung tâm là sự tập chú thần bí nội tâm. Tác giả mà chúng ta trích dẫn ở đây nói rằng: một khám phá hiện đại đó là những linh hồn thuần tuý và tỏa hào quanh thì không tốt chút nào”.
Chú thích
139 De can. Sanct. III, 52, 3.
140 L.c., XXVIII, 15.
141 Homo apost. App. I, 17.
142 Th. A. Vallgornera, Thần học thần bí của thánh Toma, Q. IV, disp. 2, a. 2, nn. 1-8. Marietti Torino, 1889 và 1911.
143 Don Paolo Albera không thuộc vào số các nhân chứng; nhưng lời của ngài qui chiếu tới Don Amadei trong cuộc thẩm vấn.
144 Lá thư gởi cho hồng y chủ tịch thánh bộ Nghi lễ, ngày 27 tháng chín năm 1926, trong Phụ lục tài liệu của các trả lời trình bày về các nhân đức (1926).
145 Diễn từ sau Sắc lệnh về các nhân đức anh hùng của Đầy tớ Chúa Domenico Savio (Mem. Biogr., vol. XIX, p. 220).
146 Cant. 5, 6.
147 Dc 5, 6.
148 Tv 118, 109.
149 Cfr. Lá thu đã trích của Don Rinaldi.
150 Tường trình về các nhân đức, p. 972, §1.
151 Summ. X, 39.
152 Các đối thoại, LXXXIX, 6.
153 Tường trình về các nhân đức., p. 589, § 183.
154 Castello interiore, C. I.
155 Tường trình về các nhân đức., p. 416-7, §384.
156 L.c., p. 788, §29.
157 L.c., p. 793-4, §47.
158 Teotino, lời tựa, đoạn thứ ba.
159 IIa IIae, q. 91, a. 1. ad 1.
160 1 Gio 4, 16.
161 Tường trình về các nhân đức., p. 592, §3.
162 L. c., XII, p. 1-2.
163 Dt 12, 6.
164 Tường trình về các nhân đức., p. 319, §§ 52 và 55.
165 De Montmorand, do Tanquerey trích dẫn trong in Précis de Théolog. Asc. Et myst., n. 43, C. Desclée, 1924.
166 Hello, Physionomies de Saints. St. Bernard.