Chương XVII. Các giấc mơ, thị kiến, xuất thần

Tựa đề của chương này được gợi ý từ một trích dẫn tác giả Isidoro do thánh Toma. Vị tiến sĩ thiên thần viết: “Isidoro phân biệt ơn tiên tri theo cách thức nói tiên tri… Liên quan tới cách thức ghi nhận những hình ảnh kỳ diệu Isidoro phan biệt ba thứ: giấc mơ, thị kiến, xuất thần”.130 Đó là những ơn ban gratis mà tự nó không tạo nên cũng không cần thiết cho sự thánh thiện, nhưng đi theo sự thánh thiện; với những ơn này Thiên Chúa trong cách thức siêu nhiên tỏ cho linh hồn biết các điều kín ẩn.

Trong cuộc đời Don Bosco các ơn này đóng một vai trò quan trọng đến độ không thể bỏ chúng qua một bên mà không đánh mất một yếu tố có giá trị lớn lao giúp chúng ta hiểu về sự kết hiệp mật thiết của ngài với Thiên Chúa. Những người đã sống trong nhà Salêdiêng đều nghe biết về các giấc mơ của Don Bosco, và chúng được gọi như thế do chính ngài. Tên gọi này sống trong các nhà của ngài, nơi người ta hiểu mà chẳng cần một giải thích nào.

Chúng ta không có ý định chứng minh xem có thực sự có những giấc mơ siêu nhiên không; có lẽ sẽ là một vấn đề rất rộng. Ai không biết rằng thấy trong mơ131 được Gioel kể vào số các ơn của Thánh Thần ban xuống trong những ngày sau cùng, tức là thời của Đấng thiên sai, như thánh Phêrô giải thích đó sao? Bởi thế chúng ta sẽ bàn về các giấc mơ của Don Bosco.

Các giấc mơ này phải nói rằng rất nhiều, và xảy ra cách nhau không lâu xét về thời gian từ lúc vị đầy tớ Chúa còn ở tuổi thiếu niên cho tới lúc tuổi già. Chỉ một ít giấc mơ, chúng ta có bản văn do chính ngài viết hay duyệt lại; số khác là do các tường thuật của các chứng nhân tai nghe và đáng tin; nhiều giấc mơ được lưu truyền qua truyền thống truyền khẩu; một số là do những hồi ức không rõ hoặc được cô đọng từ những nguồn không chắc chắn. Trong mười tám cuốn của bộ Hồi sử, giữa các tường thuật quan trọng được nhấn mạnh, người ta đếm được khoảng một trăm.

Nói chung các cảnh được diễn tả trong đó hơn kém được xảy ra trong khung cảnh hơn kém có tính kết cấu hóa: Giáo hội công giáo, Tu hội Salêdiêng, Nguyện xá Valdocco. Về Giáo hội ngài được giải thích về những diễn tiến của tương lai hoặc trong đời sống giáo hội nói chung hoặc tại một nước nào đó nói riêng; về Tu hội ngài nhìn thấy những việc phải thực hiện, con đường phải theo, những trở ngại phải tránh; về các thanh thiếu niên, ngài được thấy lương tâm, ơn gọi, những cái chết sắp xảy đến. Ngài mơ đã mơ trong hoàn cảnh nào, chúng ta có thể hiểu được nhờ vào một số cách thức diễn tả nào đó của ngài.

Như thế, về giấc mơ vào một đêm giữa năm 1867 và 1868 ngài nói như sau: “Đó là một giấc mơ, trong đó một người có thể biết được điều mình làm, nghe thấy điều người ta nói, và trả lời nếu được hỏi”.132 Thường luôn có một nhân vật ở bên cạnh ngài hướng dẫn và giải thích, không phải luôn cùng một người; có thể đó là một học sinh đã qua đời, có khi là thánh Phanxicô Salê, có khi là thánh Giuse hay một vị thánh nào khác, có khi là một thiên thần, đôi khi là chính Đức Me; trong một số trường hợp các vị đó là người đồng hành hoặc có khi đóng một vai phụ thuộc.

Còn Don Bosco, ngài nghĩ gì về các giấc mơ của ngài? Những giấc mơ đầu tiên ngài không tin lắm, và gán cho chúng giá trị của sự tưởng tượng; bởi đó khi kể lại chúng, nếu có cảnh tượng gì về tương lai, ngài luôn e sợ rằng hoặc đã lầm lẫn hoặc nói rằng những chuyện đó không nên coi là quan trọng. Tuy nhiên ngài phân biệt rất rõ giấc mơ này với giấc mơ kia, và nếu có một số giấc mơ, như thực tế, kết thúc mà không để lại trong ngài ấn tượng gì về tương lai, thì một số ghi lại trong tâm tư ngài một ấn tượng không phai. Đối với những người thân cận trong cung cách của một gia đình, ngài tâm sự rằng các giấc mơ loại này thường lập lại nhiều lần. Sau khi kể lại các giấc mơ đó, ngài đi xưng tội với Don Cafasso, vì đã táo bạo nói ra, và vị linh mục thánh thiện lắng nghe ngài và suy tư về điều đó; sau cùng một ngày kia ngài trả lời cho Don Bosco: “Bởi vì những điều con kể là thật, con cứ an tâm và tiếp tục”.

Tuy nhiên ngài không tin rằng xa rời sự thận trọng là thích đáng. Trong một trong những ký sự đề ngày 13 thang giêng năm 1861, người ta ghi lại những lời sau đây của Don Bosco liên quan đến một giấc mơ xảy ra liên tiếp nhau trong ba đêm: “Trong ngày thứ nhất cha không muốn coi đó là quan trọng, bởi vì trong Kinh thánh Chúa cấm chúng ta. Nhưng trong những ngày mới vừa qua, sau khi có nhiều kinh nghiệm, sau khi đã nói chuyện riêng với một số thanh thiếu niên, sau khi kể cho chúng nghe những điều này điều kia mà cha thấy trong giấc mơ và chúng bảo đảm với cha rằng đúng như thế, thế là cha không thể nghi ngờ gì rằng đây là một ơn đặc biệt mà Chúa ban cho tất cả con cái của Nguyện xá. Bởi thế cha cảm thấy buộc phải nói với các con rằng Chúa kêu gọi chúng ta và làm cho chúng ta nghe tiếng của Ngài, và khốn cho ai chống cưỡng lại tiếng Ngài!”.

Dù vậy, một cách khiêm nhường ngài không tin vào mình, ngài muốn tin vào sự thận trọng hơn; bởi thế vào ngày 15 chúng ta lại đọc thấy: “Cha nói lại điều cha đã nói; cha đã mơ, tuy một phần cha không muốn các con coi là quan trọng; phần khác cha lại thấy nó qúa quan trọng, và do đó cha đã điều tra lại cẩn thận”. Cuộc điều tra đã thực hiện bởi việc hỏi han ba em, mà trong giấc mơ ngài đã thấy tình trạng đáng thương của chúng và ngài thấy chúng đúng ở trong tình trạng như trong giấc mơ cho thấy. Bảy năm sau, vào ngày 30 tháng tư năm 1868, ngài nói lại điều đó như sau: “Các thanh thiếu niên của cha thân mến! Tối hôm qua cha nói với các con rằng cha phải kể với các con một chuyện không hay. Cha đã có một giấc mơ, cha đã quyết định không kể cho các con, bởi vì một đàng cha ngờ vực rằng đó chỉ là một giấc mơ như mọi giấc mơ khác, vốn chỉ là sự tưởng tượng hiện lên trong giấc mơ, đàng khác vì mỗi lần cha kể luôn có đồn đại và nhận xét này kia. Nhưng một giấc mơ khác đã bắt cha nói với các con về giấc mơ trước đó”. Sau đó ngài kể, trong giấc mơ sau nhân vật lạ nói với ngài: “Tại sao ngươi không nói?”. Người ta không thể tin nổi rằng trong chuyện này như hàng trăm chuyện khác sự thận trọng đã là một khuyết điểm đối với Don Bosco!

Tâm sự của ngài với Don Giulio Barberis năm 1876 mang vẻ nghiêm trọng và lo lắng giúp chúng ta hiểu cái đã nói cho tới đây: “Khi cha nghĩ tới trách nhiệm của mình về tình trạng mà cha đang ở trong đó, cha cảm thấy run sợ. Các điều mà cha thấy xảy ra, là những điều đặt trên cha một trách nhiệm vô cùng to lớn. Cha sẽ phải tính sổ nghiêm khắc với Chúa về tất cả những ơn huệ Ngài đã ban để Tu hội được tiến triển! Người ta có thể nói rằng Don Bosco thấy tất cả và đã được dẫn dắt trong tay của Đức Mẹ… Từng bước, từng hoàn cảnh, Đức Mẹ đều có đó!”.

Don Bosco đã thuật lại các giấc mơ như thế nào? Với tinh thần như thế nào ngài kể lại chúng, có lẽ khá rõ trong các trích dẫn bên trên; tuy nhiên còn có gì đó phải bổ túc. Một chứng nhân cho chúng ta biết: ngài trình bày các sự việc “với một sự đơn giản, nghiêm chỉnh và tâm tình”.133 Thường ngài mở đầu với sự khôi hài, tránh tất cả những gì có thể gây ra tiếng đồn hoặc gây nên ý tưởng về công trạng hay đặc ân của ngài. Khi kể, ngài lập lại những câu xúc tích hoặc những diễn tả vui hài, để làm người nghe khỏi chú ý vào một vài điểm riêng rẽ; tuy nhiên không thiếu những em thông minh hiểu và ghi lại.

Luôn với mục đích làm giảm nhẹ ấn tượng về cái phi thường, ngài đưa ra những cái tên không có ý nghĩa về nhân vật thường đồng hành với ngài, gọi đó là người hướng dẫn, người giải thích hoặc, còn chung chung hơn nữa, người lạ mặt; ngài chỉ nói theo lối xưng hô “với con, vì con” đối với một vài người, ngài không đưa ra những chỉ dẫn thiếu chính xác. Và ngài luôn quan tâm khéo léo để cho thấy sự nhỏ bé của mình. Như thế, khi kể về giấc mơ năm 1961, sau khi nói về sự mệt nhọc của ngài vì thấy các thanh thiếu niên của Nguyện xá giả điếc trước các lời khuyên của ngài và không đáp ứng lại lòng tốt của ngài, ngài nói: “Người giải thích của cha khiển trách cha: - Ôi kẻ kiêu ngạo! Ông thấy không ông là một kẻ kiêu ngạo! Ông là ai mà nghĩ tới chuyện hoán cải, tại sao ông làm việc? Bởi vì ông yêu đám trẻ của ông, ông đòi hỏi thấy tất cả chúng nó đáp ứng lại các ý định của ông? Ông nghĩ rằng ông yêu mến, vất vả và chịu đau khổ cho các linh hồn hơn cả Chúa cứu thế hay sao? Ông nghĩ rằng lời của ông có hiệu lực hơn lời của Chúa Giêsu hay sao? Ông giảng hay hơn Ngài sao? Ông nghĩ rằng đã dùng đức ái và đã chăm sóc thanh thiếu niên của ông hơn là Chúa đã làm với các môn đệ hay sao? Ông biết đấy họ đã sống với Chúa liên tục, họ luôn hưởng đầy đủ mọi sự tốt lành của Chúa, ngày đêm nghe lời khuyên nhủ và giáo lý của Chúa, họ nhìn thấy công việc của Chúa, những điều đó đã phải là sự kích thích cho họ để thánh hóa cuộc sống. Có gì mà Ngài đã không làm và không nói cho Giuda! Thế mà Giuda đã phản bội và chết không hối cải. Có lẽ ông còn hơn cả các tông đồ sao? Đây này, các tông đồ đã chọn bảy phó tế: họ chỉ có bảy người, những kẻ được chọn cẩn thận: thế mà một người lạc đường. Còn ông giữa năm trăm người, ông bỡ ngỡ khi thấy một con số nhỏ không đáp ứng lại sự chăm sóc của ông? Ông đòi hỏi thành công không có lấy một kẻ xấu, không một kẻ lạc đường sao? Ông qúa kiêu ngạo!”.

Để giảm bớt tối thiểu bao có thể những gì có thể tạo nên dư luận về ơn siêu nhiên, ngài có lý khi hạ mình khi nói về những lời khiển trách nặng như thế; tuy nhiên sự thật có quyền lợi riêng của nó. Bởi đó ngài khuyên nhủ chúng đừng đùa cợt vời những gì được nghe, và mỗi người hãy có những áp dụng riêng cho mình. Ngoài ra, chính những lời khuyên này cũng mang hương vị của sự khiêm nhường phúc âm.

Một dẫn chứng cuối cùng khác hơi dài, nhưng hy vọng không làm độc giả bớt thích thú. Giấc mơ năm 1861, trong đó ngài nhận lại một lời khiển trách trước đó, được kể lại trong ba buổi tối liên tiếp. Đây là câu chuyện: “Bây giờ cha đã kể xong cho các con tất cả mọi sự, các con sẽ nghĩ rằng: - Ai biết được? Don Bosco quả là một người siêu phàm, một cái gì đó vĩ đại, một vị thánh là cái chắc! Các con của cha thân mến! Để ngăn cản những phán đoán ngu ngốc đó về cha, cha để cho các con hoàn toàn tự do tin hay không tin những điều này, cho nó là quan trọng hay không: cha chỉ xin các con đừng làm cho nó nên trò cười, dù là đối với bạn học hoặc là đối với người lạ. Phần cha, cha cân nhắc kỹ để nói với các con rằng Chúa có nhiều cách để tỏ lộ thánh ý Ngài cho con người. Có khi Ngài dùng những dụng cụ bất tài và bất xứng, như đã sử dụng con lừa của Balaam, khiến nó nói; và cả đến lượt Balaam một tiên tri giả nữa, đã nói lên những lời tiên báo về đấng Thiên sai. Bởi thế điều tương tự cũng có thể xảy ra cho cha. Cha muốn nói với các con rằng, đừng nhìn các công việc của cha để điều hành việc của riêng các con. Điều duy nhất mà các con cần phải làm là chú ý đến điều cha nói, bởi vì ít là theo ý cha, đó là ý Chúa và làm ích cho các linh hồn. Về những điều cha làm, xin các con đừng bao giờ nói: - Don Bosco đã làm; đúng thế. Không. Trước hết hãy quan sát điều cha làm, nếu thấy là việc tốt, hãy bắt chước; còn nếu trường hợp các con thấy có điều gì xấu, thì coi chừng đừng bao giờ bắt chước: cứ coi đó như một điều xấu đã làm”.

Ngài không nói ra công khai mọi điều nhìn thấy hay nghe thấy trong các giấc mơ; nhưng một số điều ngài nói chỗ riêng tư với người có liên quan; một số khác ngài thổ lộ với một số người mà ngài thấy thân mật hơn, trong chỗ riêng tư khi hỏi ngài; sau cùng một số ngài giữ riêng cho mình về những điều liên quan đến mình ngài thôi. Thật vậy một trong những người viết niên sử cho chúng ta biết rằng một số giấc mơ nào đó biết được là do nghe đây một chút kia mọt chút, để có thể “gom lại chất liệu”, và về một số giấc mơ khác nữa, để ghi lại tất cả, có lẽ cần nhiều cuốn sách tương tự.

Thí dụ như cũng về giấc mơ nói trên trong năm 1861, Don Bosco nói rằng nhờ ba đêm đó ngài đạt được hiểu biết về thần học hơn cả mấy năm tại chủng viện, và ngài có ý định viết về những đề tài thần học đó, bỏ qua những “sự kiện loại biệt” của đêm thứ ba và chỉ đề cập “những lý thuyết” do hai đêm đầu đem lại. Bởi thế, người ta suy ra rằng tường thuật của ngài có mục tiêu giáo huấn, cũng cố và dạy người khác hoặc kể cả để cảnh báo, nên ngài đã kể ra công khai khi chọn lựa các phần, để nói chung sinh ích cho người nghe. Và thực vậy, các hiệu qủa nảy sinh như có lẽ ngài đã có thể thấy trước. Đặc biệt là làm cho sự sợ tội gia tăng; sự xưng tội thêm lòng thống hối, sự xưng tội chung gia tăng, cũng thế về việc rước lễ thường xuyên. Tóm lại, nói theo kiểu của Don Bosco đó là lúc ma qủi bị phá sản.

Nhận định sau đây của kinh sĩ mà chúng ta đã trưng dẫn bên trên còn cho thấy rõ hơn nữa: “Đối với chúng tôi, dù không còn là trẻ thơ nữa, sẽ chẳng có một giải thích nào hữu lý và đáng tán thưởng nếu không phải đó là ân huệ phi thường mà Chúa đã ban cho Don Bosco”. Điều này càng đúng hơn nữa nếu người ta ý thức rằng, Don Bosco không chỉ không phải là người thích gây sự khiêu khích cũng như không ao ước những giấc mơ loại này, mà trái lại ngài còn sợ, bởi vì nó làm ngài phải chịu những rối loạn không nhỏ về thể lý. Đôi lần ngay sau khi kể, ngài không còn nhớ mình đã nói gì, một điều mà không phải ít xảy ra cho người nói dưới sự gợi hứng siêu nhiên. Tuy nhiên, ngoài nhiều điểm mà chúng ta đã trình bày, còn có hai đặc điểm đáng lưu ý nữa khiến nhà tâm lý học không thể phán định về các giấc mơ của Don Bosco trong phạm vi thuần tuý tự nhiên.

Đặc tính thứ nhất thuộc yếu tố tâm-thể lý. Trong các giấc mơ tự nhiên, sự tưởng tượng chiếm ưu thế, không bị lý trí điều khiển. Điều kiện thông thường của các giấc ngủ là sự mệt mỏi. Sự mệt mỏi, dù không gây ra sự tổn hại toàn phần, nó làm phát sinh ra những chất liệu gây rối loạn thần kinh: thiên nhiên đã dự liệu tất cả, để khi những chất liệu này đạt tới một số lượng nào đó, sẽ xảy ra một phản ứng cơ học để ngắt sự tiêu tốn năng lượng này. Sự ngắt đứt đó lấy lại từ hệ thống thần kinh năng lượng tâm-thể lý cần thiết cho hoạt động bình thường, càng cần hơn nữa khi người đó thấy buồn ngủ. Số ít của năng lượng tâm-thể lý còn lại trong trung tâm cao cấp cũng đủ để làm kích hoạt giấc mơ; nhưng thông thường khó lòng mà kích hoạt các trung tâm chuyển động này, vốn gắn liền với các trung tâm giác quan.

Vậy thì nếu người ta cho rằng Don Bosco, khi đi ngủ, đã qúa buồn ngủ, người ta đã có lý do để kết luận rằng nơi ngài sức sinh động của giấc mơ không thể giải thích được cách nhân loại.

Nhưng còn có một điều khác. Phản ứng cơ học của sự ngắt quãng bộ máy hoạt động và sự suy giảm năng lượng tâm-thể lý của hệ thống thần kinh trung tâm ảnh hưởng trên hoạt động tưởng tượng gây nên hai hiện tượng, tức là sự bất thường và sự thay đổi thình lình, mà chúng ta ai cũng có thể đã nghiệm thấy trong giấc ngủ; bởi vì sự thiếu năng lượng tâm-thể lý khiến cho không thể theo đuổi lâu một mục đích, và chỉ cần một kích thích bên ngoài điều khiển chút năng lượng còn lại đó tới một một hướng khác, thì tức khắc tất cả các hình ảnh của giấc mơ tan biến ngay. Bởi đó nói chung trong giấc mơ hoạt động tưởng tượng không được hướng dẫn bởi một ý định tích cực nào cả; vì thế trong các giấc mơ tự nhiên không thể xác minh được cái trật tự hữu lý mà nó trình bày cũng như cái mạch lạc lý luận của các ý tưởng, nhưng bỏ qua tất cả, với một loạt những sự bùng nổ bất thình lình những cái lạ thường và với biến chuyển cực kỳ nhanh thành điều kỳ quặc khác thường.134

Trong các giấc mơ của Don Bosco tất cả đều ngược lại. Nó là sự trình bày mang tính biểu tượng giống như điều tỏ ra cho thánh Phêrô trong thị kiến tấm khăn từ trời thả xuống đầy những thú vật sạch cũng như dơ.135 Có các yếu tố cấu tạo hơn kém phức tạp, kéo dài diễn tiến với những hành vi phân biệt, giống như trong các vở kịch đúng nghĩa. Hơn nữa, ở đây còn có yếu tố lạ lùng, tức là thấy một cách liên tục trong các hình ảnh một sự tiếp nối với lý do hiện hữu của chúng, và trong các lời nói nghe thấy hoặc đọc thấy có một ý nghĩa tạo thành một với các hình ảnh.

Mỗi giấc mơ xoay chuyển quanh một ý tưởng trung tâm và đi thẳng tới một mục đích rõ rệt; toàn thể hoạt động diễn tiến cách tiệm tiến và trật tự, như thể trong các vở kịch được viết một cách chu đáo. Đó là tôi còn chưa nói tới, dù cho các hình thức nhạy cảm được trình bày trong một loại biểu tượng có trình tự đối với một trí óc bình thường, chúng lại đưa những yếu tố dù lạ lùng hay tầm thường tới một mục tiêu thánh thiện. Đơn giản hóa có lẽ được ưa thích, nhưng chính giới hạn của cuốn sách của chúng ta bắt chúng ta phải ngừng lại.

Đặc tính thứ hai của các giấc mơ của Don Bosco là mang tính chất ngôn sứ. Các sự tưởng tượng của chúng ta trong giấc mơ được kết cấu và kết thúc không có sự hướng dẫn của trí khôn, có thực sự dự đoán về tương lai không? Ồ, không thể ngay cả để đánh thức trí thông minh nữa! Gia tăng các nhận xét về các sự kiện và hiện tượng liên quan, người ta có thể tạo ra trước các hiệu qủa hơn kém xa, nhưng nếu thiếu một điểm hiện thực để làm điểm tựa, mọi cố gắng để lự đoán về tương lai đều vô ích; chúng ta đều chắc chắn về tính vô thức của giấc mơ! Thế nhưng các giấc mơ của Don Bosco không chứa đựng những dự đoán mông lung mờ ảo, nhưng là những mạc khải rõ ràng và chính xác về những biến cố kín ẩn còn nằm trong tương lai.

Phải nói rằng thần khí ngôn sứ ở trong Don Bosco, ngài đã nói nhiều tiên đoán về các sự việc tự do và tình cờ, sẽ xảy ra trước và sau khi ngài qua đời, trong thời gian và trong cách thức ngài công bố. Kinh sĩ Ballesio mà chúng ta đã nhiều lần đề cập, viết như sau: “Nơi Don Bosco điều này xem chừng không phải một tia sáng xuất hiện giống như tia chớp vụt qua trong trí khôn, nhưng có vẻ như một tình trạng thông thường tự nhiên trong trí óc ngài, vì chính cách ngài nói tiên tri khi cầu nguyện, khi trao đổi, khi vui đùa; và đang khi ngài nói tiên tri hầu như ngài cũng như người khác không nhận ra ngài đang nói tiên tri”. Ngài cũng nói tiên tri ngay cả trong khi mơ nữa.

Trong các giấc mơ, nội dung ngôn sứ, nếu không tất cả, thì cũng là phần lớn. Thế nên có bao nhiêu cái chết mà ngài không báo trước, vì ngài đã được biết trước trong giấc mơ! Ngài không công bố tên, nhưng nói rõ ngày tháng; về tên có đôi lần ngài nói bật mí công khai chữ cái đầu tiên, có lần ngài báo riêng một cách kín đáo. Về điều xảy ra, các người tốt cảm thấy thích thú, vì họ đã quen với những lời nói đáng lưu tâm của ngài; còn những người nghi ngờ thì câm lặng, những kẻ mà, dù như số ít kẻ bơi lội trong cơn đại lụt, dù do dự không muốn tin nhưng lại thấy tính cách sự kiện của các lời tiên tri. Về chuyện này chúng ta chúng ta không thu lượm trình bày các giai thoại, xin để cho các người viết tiểu sử; tuy nhiên về vấn đề này còn đôi điều nữa mà Don Bosco có thể nói với chúng ta.

Một trong những người thu thập các ký sự trong nhà, vào ngày 17 tháng hai năm 1861, ghi lại một nhận xét ám chỉ về những lời tiên tri trong giấc mơ. “Những chuyện này vốn xảy ra trong nhà và nói đến trong nhà chúng ta, chắc chắn rằng chúng là riêng biệt và phải ở giữa chúng ta mà thôi, tuy nhiên nếu người ngoài mà biết được, họ sẽ cho là chuyện bịa đặt. Nhưng chúng tôi luôn luôn tin rằng, khi chuyện gì đó hướng tới mưu ích cho các linh hồn, chắc chắn nó đến từ Thiên Chúa và không thể đến từ ma quỉ”.136

Đối với phía khác, kẻ đối nghịch Thiên Chúa và các linh hồn, có một lãnh vực dành riêng, từ đó phóng ra các cuộc tấn công vào Don Bosco. Poulain, người chuyên viết về vấn đề thần bí, có nhận xét này rất liên quan đến truờng hợp của chúng ta: “Từ đời sống của các thánh dường như rõ ràng rằng, nếu họ chịu những lo âu nặng nề, thì điều đó thường xảy ra, khi họ đạt tới giai đoạn xuất thần hoặc ngay khi chỉ là những mạc khải hay thị kiến thần linh, dù cho ân thị kiến liên tục hay có những lúc bị tạm thời ngưng lại. Đứng trước hành động đặc biệt của Thiên Chúa thì ma quỉ cũng có hành động phi thường đối ngược lại”.137 Ngay cả đối với các thánh của Giáo hội đang lữ hành, thì trái đất này cũng là chiến trường.

Về cuộc chiến của ma qủi chống lại Don Bosco chúng ta có những tờ thông tin chính thức soạn thảo vào giai đoạn đầu; bấy nhiêu cũng đủ cho chúng ta một ý tưởng về tất cả cuộc vận động kéo dài ba năm. Ma qủi đã thi hành sự thù nghịch của hắn chống lại đầy tớ Chúa đặc biệt không cho ngài ngủ ban đêm. Một âm thanh rất lớn quấy rối bên tai ngài, gió lớn như cuồng phong xô đẩy ngài; cũng như làm đảo lộn vứt tung tóe giấy tờ và sách vở.

Một buổi tối nọ, sau khi sửa bản thảo của cuốn sách nhỏ tựa đề Quyền lực của bóng tối, ngài đặt trên bàn; thế nhưng buổi sáng khi thức dậy ngài chỉ còn thấy một số trang nằm vung vãi trên đất. Từ lò sưởi không đốt phát ra những ngọn lửa bùng cháy. Vừa khi nằm xuống giường, liền có một bàn tay bí mật từ từ kéo chăn xuống tới chân; đắp chăn lại như cũ, ngài lại cảm thấy bị kéo xuống lần nữa. Ngài thắp đèn lên, hiện tượng đó biến mất, để rồi lại xuất hiện khi tắt đèn; một lần đèn trong phòng ngài bị thổi tắt bởi kẻ vô hình. Tới lúc sắp đi vào giấc ngủ, cái gối đang kê đầu liền nhảy múa. Khi ngài làm dấu thánh giá hoặc đọc kinh, thì liền trở lại bình yên, nhưng vừa thiu thiu ngủ thì cả chiếc giường rung chuyển. Cửa phòng rung chuyển như gặp phải gió mạnh. Những tiếng động trên trần nhà làm người ta có cảm tưởng nhiều chiếc xe ngựa đang di chuyển; rồi thỉnh thoảng từ đó phát lên những tiếng thét ghê rợn. Một đêm kia, cửa phòng bật tung và một con quái vật đầy răng nhọn tiến vào, phóng tới để nuốt trửng ngài, nhưng dấu thánh giá đã làm nó tháo lui.

Có một linh mục rất can đảm kia muốn canh gác trong phòng Don Bosco, nhưng không thể lưu lại đó, vì vào lúc nửa đêm ngài kinh sợ vì những âm thanh của hỏa ngục, bỏ chạy để thoát thân. Hai thầy tư giáo khác tự nguyện thử canh gác như người trước, họ ở lại gian thư viện bên cạnh, nhưng rồi cũng phải rút lui vì qúa kinh hãi. Còn lại Don Bosco khốn khổ, để được bình an, ngài đi tới Đức giám mục ở Ivrea, nhưng sau một đêm bình yên, tên địch cũng tới nơi và mọi sự diễn ra như cũ và còn tệ hơn nữa. Có lẽ cần phải xem bài viết trong năm 1865 nói về cuộc đấu tranh khủng khiếp với thần khí của bóng tối này. Don Bosco cho thấy sau cùng ngài đã tìm được phương chữa trị, một liều thuốc rất hiệu lực, tuy nhiên ngài không muốn giải thích rõ hơn. Có lẽ đó là một việc đền tội ngoại lệ nào đó.

Các giấc mơ siêu nhiên thuộc về bình diện thị kiến, được các nhà thần bí gọi là có tính hình ảnh, bởi vì được thực hiện nhờ vào các hình ảnh tác động trên trí tưởng tượng do nguyên nhân từ trên cao; nhưng các thị kiến như thế cũng xuất hiện ngay cả lúc thức. Người ta quen xếp lẫn lộn các giấc mơ của Don Bosco vào loại thị kiến theo cách này hay cách khác, đang khi dù theo cách tương tự chăng nữa, thì chúng rất khác biệt nhau. Như thế loại thị kiến tưởng tượng trong tình trạng thức xem chừng không thể không đi đôi với một mức độ xuất thần nào đó, nghĩa là hơn kém thoát khỏi ảnh hưởng của các giác quan.

Vị đầy tớ Chúa đã nhìn thấy theo cách thức này, một loạt những biến cố trong năm 1870, đang thực hiện vào giai đoạn cuối đời. Mở đầu bản văn mà ngài viết và gởi cho Đức Pio IX, ngài xác định ý kiến này; thật vậy ngài diễn tả với những dòng chữ sau đây: “Ngày áp lễ Hiển linh năm nay 1870, biến mất tất cả đồ đạc trong phòng và con thấy về những sự siêu nhiên. Việc xảy ra nhanh chóng nhưng con thấy được rất nhiều. Dù có hình thức, dáng vẻ khả giác, tuy nhiên rất khó để truyền đạt cho người khác với những dấu hiệu khả giác bên ngoài. Cũng như thí dụ sau đây có thể đem lại một ý tưởng. Đó là lời của Thiên Chúa được thích ứng theo lời của con người”. Ngài đã nhìn thấy trước mặt theo cùng một cách thức và trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau thánh trẻ Luigi Colle của thành phố Tolone, người mà ngài quen biết ít lâu trước khi vị thánh này về trời năm mười bảy tuổi. Khoảng năm 1881 cho đến 1885, người qua đời xuất hiện cho ngài lúc ngài giải tội, khi ngài dâng thánh lễ, khi ngài trao mình thánh Chúa, một lần ngay cả tại trạm Orte đang khi đợi xe bốn tiếng. Những lần xuất hiện như thế luôn luôn tỏa sáng và hạnh phúc, có lần thì chuyện vãn, có lần không.

Một thị kiến khác cùng thể loại là vào khoảng tháng tám năm 1887 tại Lanzo Torino. Một nữ tu con Đức Mẹ Phù Hộ, ao ước nhận phép lành của ngài và vì quá mệt mỏi do chờ lâu ở phòng đợi bên ngoài nơi ở của vị đầy tớ Chúa, chị đẩy nhẹ cánh cửa phòng làm việc của Don Bosco đang khép hờ, và chị đã thấy gì? Don Bosco đang trong trạng thái ngất trí, như thể đang lắng nghe. Khuôn mặt biến đổi bởi ánh sáng; dáng điệu thanh thản và dịu dàng; cánh tay giơ lên cao và thỉnh thoảng gật đầu như thể nói vâng. Nữ tu đó lập đi lập lại: “Vạn tuế Giêsu, thưa cha, cho con xin phép?”. Nhưng ngài không động đậy. Cuối cùng sau khoảng mười phút, cảnh tượng này kết thúc với dấu thánh gía mà Don Bosco cúi đầu làm cách cung kính không thể tả được. Cần biết rằng năm đó Don Bosco không thể đứng mà không có người giúp, lúc đó ngài đã hơi còng lưng, nhưng lúc ấy ngài hoàn toàn đứng thẳng một mình.

Ngoài thị kiến hình ảnh, người ta còn biết hai loại thị kiến khác, một thấp hơn loại vừa kể và một cao hơn. Loại thấp hơn đó là thị kiến được gọi là giác quan, thân xác, mắt nhìn; trong những thị kiến này, các giác quan nhận thức những sự vật bên ngoài mà người ta không thể thấy cũng như không thể hiểu nếu không có sự trợ giúp thiêng liêng.

Don Bosco có một thị kiến loại này khi ngài được cho biết về tương lai của cậu bé Cagliero, đang đau ốm nặng. Đặt chân ở ngưỡng cửa phòng để bước vào thăm cậu và giúp cậu chết lành, ngài liền thấy hai sự việc liên tiếp, cả hai đều thật ngắn ngủi. Thứ nhất, một con chim bồ câu thật sáng chói, ngậm một nhánh ô liu trên mỏ, bay mấy vòng trong phòng, cuối cùng nó bay trên người hấp hối, lấy cành ô liu đụng vào môi và sau đó thả cành ô liu trên đầu cậu: điềm báo việc tông đồ truyền giáo và sự tròn đầy của chức linh mục. Tiếp đến là một đám đông hoang dã, mang những hình thức khác lạ, cúi xuống và lo lắng cho đứa trẻ, và giữa đám người đó hiện lên hai loại đặc tính và hai loại chủng tộc khác nhau, mà sau này ngài mới hiểu đó là đại diện cho người dân Patagoni và Fueghini.

Các thị kiến thuộc loại khác, tức là loại cao hơn tất cả, được mang tên là thuộc trí năng; trong các thị kiến này trí năng trực giác các chân lý thiêng liêng không thông qua các hình ảnh khả giác. Don Bosco có được Thiên Chúa ban cho các thị kiến thuộc loại này không? Chúng ta không khẳng định điều này với sự chắc chắn. Nhưng ai biết được sự dư đầy các đặc sủng siêu nhiên mà Chúa dùng để làm phong phú linh hồn của Don Bosco?

Sự tự nhiên của ngài trong tất cả mọi sự và sự giản dị thường hằng của cuộc sống ngài được tạo nên để che dấu những công trình kín ẩn của ân sủng, vì việc biết về những điều này không cần thiết để làm ích cho cận nhân. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, những trường hợp được nâng bổng và tỏa ánh sáng không có giá trị để ủng hộ giả thiết rằng ngài cũng không thiếu thị kiến ở bình diện cao nhất hay sao?

Trong năm 1879, vị đầy tớ Chúa, đang khi cử hành thánh lễ trong nhà nguyện riêng, người ta thấy trong ba ngày khác nhau mặt ngài tỏa một ánh sáng chiếu sáng hết cả căn phòng, và rồi toàn thân ngài tách rời khỏi thềm nhà, từ từ nâng cao và lơ lửng trên không khoảng chừng mười phút.

Nhà viết sử Don Lemoyne trong ba buổi tối liên tiếp nhìn thấy mặt ngài từ từ tỏa sáng tới độ như một ánh sáng trong suốt; tất cả khuôn mặt tỏa ra một ánh sáng mạnh và dịu dàng. Cha bề trên cả Don Rinaldi thuật lại cho tác giả cuốn sách này, đã thấy bất thình lình trong ba cuộc gặp gỡ, một vào lúc mười tuổi, lần khác vào lúc hai mươi, và lần khác lúc ba mươi, giữa ban ngày và trong những nơi khác nhau đi mắt Don Bosco tỏa sáng như ngọn lửa và rồi ánh sáng đó lan ra khắp toàn thân, khiến ngài như có một hào quang chói ngời, vượt xa ánh sáng tự nhiên và chiếu sáng như hào quang của các thánh. Sự nhẹ nhàng và sự tỏa sáng là hai tài năng tuyệt đẹp dành cho các thân xác đã vinh quang. Nếu dưới trần này trong thân xác những người sống những tài năng đó phát ra sự tiên báo kỳ diệu, thì không hợp lệ khi cho rằng một hiện tượng như thế xảy ra khi các linh hồn được nâng cao, hưởng nếm trong thị kiến những sự thần linh, hơn kém mang hương vị của hưởng kiến chân phúc tương lai hay sao?

Dữ liệu về ơn hưởng kiến thiên đàng này không có nhiều âm vang như tiếng tăm làm phép lạ, vốn đi theo với tên tuổi của ngài và ngày càng gia tăng cho tới khi xuống mồ. Về ơnlàm phép lạ cũng không phải là công việc của chúng ta bàn nhiều ở đây; tuy nhiên tránh không nói xem ra lại không phù hợp trước khi kết thúc chương này.

Từ một kỷ yếu năm 1884, lúc đó Don Bosco đã gìa, ngài viết với bàn tay đã mệt mỏi nhưng trái tim mở rộng, để lại có thể được gọi là chúc thư của người cha cho con cái, những kỷ niệm và những lời khuyến cáo hữu ích, chúng ta lấy ra vài giai thoại liên quan tới đề tài. Người cha tốt lành diễn tả tâm tình, mà dù ngài không nói ra, thì những người đã cùng sống với ngài cả đời đều tin tưởng. Đối với chúng ta những người sống xa ngài, thì những tuyên bố của ngài là những điều mà chúng ta ao ước được biết để có thể hiểu về các ý nghĩ thầm kín của ngài trong sự tràn đầy các ân ban siêu nhiên vốn từ trong tinh thần ngài phát xuất ra bên ngoài, khiến ngài thực hiện các phép lạ.

Với tất cả sự chân thành, ngài viết thế này: “Cha nóng lòng khuyên tất cả các con của cha hãy cảnh giác trong khi nói cũng như trong khi viết, để đừng bao giờ kể hoặc quả quyết rằng Don Bosco đã nhận được từ Thiên Chúa hoặc đã thực hiện những phép lạ. Người ấy sẽ mắc sai lầm nguy hại; dù rằng lòng nhân lành của Thiên Chúa rất quảng đại đối với cha, tuy nhiên cha không bao giờ cho rằng đã biết hay thực hiện các việc siêu nhiên. Rồi cha luôn nghiệm thấy hiệu lực lời cầu nguyện chung của các thanh thiếu niên của chúng ta, cũng như Thiên Chúa từ bi và Mẹ rất thánh đã giúp chúng ta trong mọi sự cần thiết. Điều đó được xác minh cách đặc biệt mỗi khi chúng ta cần phải chu cấp cho các trẻ nghèo và bị bỏ rơi, và nhất là khi chúng ở trong tình trạng nguy hiểm cho phần rỗi”.

Kết thúc phần này, chúng ta nêu ra lời nhận xét của vị luật sư trong Án phong thánh nói rằng, ơn làm phép lạ xác nhận một cách tỏ tường tính chất siêu nhiên của sự thông hiệp.138


Chú thích

130 IIa IIae , q. 174, a. 1, ad 3.

131 Cv 2, 17.

132 Lemoyne, L.c.,vol. IX, p. 11.

133 Can. Giacinto Ballesio, Đời sống nội tâm của Don Bosco. Diễn từ tưởng niệm.

134 Giov. Lindworsky S.I., Thủ bản về tâm lý thực nghiệm. Galli-Gatti, pp. 111-2 và 318-9. Soc “Sự sống và tư tưởng”, Milano.

135 Cv 10, 10-16.

136 Về các giấc mơ của Don Bosco, cfr. Mem. Biogr., Vol. XVII, pp.7-13.

137 Aug. Poulain, S.I., Des grâces d’oraison, XXIV, 71. xuất bản lần thứ 10. Beauchesne, Paris, 1922.

138 Trả lời cho các đối kháng, trang 27.

Chương XVI. Ơn soi sángChương XVIII. Ơn cầu nguyện