Chương XVI. Ơn soi sáng
Ánh sáng thiêng liêng của Don Bosco tỏa rạng đặc biệt vào lúc ngài tuổi xế chiều, khi mà các công cuộc đã vững chắc và các môn đệ của ngài đã đạt tới mức trưởng thành vững vàng theo tinh thần của ngài, sự suy giảm về thể lý không cho phép ngài tham dự vào nhịp sống bình thường được nữa. Lúc này các đặc sủng phi thường, những điều mà, vốn từ ngay từ lúc chín tuổi đã không ngừng xuất hiện, giờ đây tỏa chiếu cách mạnh mẽ và thường xuyên, đến độ hầu như điều siêu nhiên bao phủ toàn thể cuộc sống.
Chúa biết tôi đã run sợ thế nào khi đi vào thế giới nội tâm của Don Bosco trong các phần trước của công việc nghiên cứu này. Giờ đây đang khi không muốn bỏ qua trong yên lặng các ơn đặc sủng, sự run sợ trở thành niềm kính sợ thánh, sự kính sợ như của người lại gần hòm bia thánh trong Cựu ước. Nền thần bí học đã không được gọi là “bình diện cao vời” của khoa học thánh đó sao? Và phải nói gì về kinh nghiệm thần bí, điều mà không bàn bằng giấy bút, nhưng bằng cuộc sống hiện thể?
Nhà thần học nổi tiếng Augusto Nicolas người Pháp, một người đáng kính nể vì tuổi tác, học thuyết và vì cuộc sống thánh thiện, một lần đã tới viếng thăm Don Bosco trước khi ngài qua đời, ông quì gối trước Don Bosco và muốn chắp hai tay trong suốt buổi đàm thoại, đón lấy lời từ đôi môi ngài những lời thánh thiện, như thể tiếng trên trần của Ngôi Lời Thiên Chúa bất tử. Một thái độ bộc phát khi đứng trước sự vĩ đại.
Thiên Chúa qủa đã rộng ban cho Don Bosco những ân sủng vô lường để ngài trở nên dụng cụ cho kế hoạch quan phòng của Người. Thật vậy trên bình diện của sự quan phòng mà Thiên Chúa, khi chọn một thụ tạo để làm một nhiệm vụ xác định, trước hết Người xếp đặt và rồi chuẩn bị nó để thực hiện tốt sứ mệnh tiền định này.115
Giữa những ân ban đặc biệt mà Thiên Chúa muốn làm cho Don Bosco nên giầu có, chúng ta cần phải nói tới ơn soi sáng, điều tỏa chiếu suốt cuộc sống ngài, luôn đồng hành với các đặc ân trổi vượt khác, khiến không thể bỏ qua hay chỉ bàn đến một cách hời hợt được.
Qua ơn soi sáng, Thánh Thần làm hoàn hảo nhân đức khôn ngoan thận trọng tự nhiên trong linh hồn người tín hữu, ban cho họ một trực giác siêu nhiên, nhờ đó người ấy cảm thấy sẵn sàng và an tâm khi phán đoán về điều phải làm, nhất là trong những trường hợp khó khăn. Đặc ân này có mục đích là sự hướng dẫn những hành động riêng biệt của con người, tuỳ theo sự khác biệt thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh cá nhân. Ap dụng vào trường hợp của Don Bosco giáo lý mà vị giám mục thời danh dạy,116 chúng ta phải nói rằng cha của chúng với đặc ân này, luôn có sự phân định vững tâm về hoàn cảnh và phương tiện, luôn thấy rõ chính mình và tiến tới cách không lung lạc, và đồng thời cũng biết chờ đợi thời điểm thuận tiện.
Ai đã cùng theo chúng ta cho tới lúc này, sẽ không cần tìm thêm bằng chứng cho xác quyết này; không có trang nào bên trên mà không cho thấy ngài đã nhìn thấy rõ ràng, rất rõ ràng trong tất cả những điều liên quan để có thể tự dẫn dắt mình. Bởi thế có lẽ sẽ là một bis in idem dừng lại thêm nữa. Chúng ta tìm hiểu ở đây sự ngài thấy rõ trong việc dẫn dắt người khác.
Don Bosco là người có ơn soi sáng không phải do tài năng hoặc do kết qủa của sự thận trọng nhân loại, nhưng do ánh sáng ân sủng siêu nhiên. Người ta tin chắc chắn một cách rộng khắp rằng, trong những điều viết hoặc đến với ngài là có lời được soi sáng.
Biết bao người, cả những người có trọng trách lớn, tìm đến với Don Bosco bằng thư từ về những vấn đề lương tâm và về đời sống thiêng liêng hoặc những vấn đề khác nữa. Về loại thứ nhất có rất nhiều tài liệu còn để lại cho chúng ta. Thư từ loại này, do tính chất nội dung riêng của chúng thông thường ngài đốt đi. Tuy nhiên trong các văn khố lưu trữ rất nhiều các thư hỏi về đời sống gia đình, về sự thích hợp đổi chỗ hoặc đổi việc, đổi nghề, về vay mượn, về sự dàn xếp các cuộc cãi vã, về cách thức điều hành gia đình và giáo dục con cái, về sự chọn lựa bậc sống, nói tóm lại là về các khúc mắc và nhu cầu đủ loại. Người ta đầy tín nhiệm vào sự khôn ngoan vượt sức nhân loại trong các lời ngài khuyên nhủ.
Chính Đức Pio IX nghĩ về Don Bosco và về sự soi sáng của ngài trong giờ phút băn khoăn. Sau khi Roma bị thất thủ tâm trí của ngài bối rối giữa chuyện ở lại hay phải đi nơi khác. Các cố vấn giúp ngài cân nhắc nhiều khía cạnh, dẫu thế Đức thánh cha cảm thấy do dự, tỏ ra thận trọng về chuyến đi của mình. Sau đó ngài không còn phân vân, ngài nói vì đã xin lời khuyên của Don Bosco và quyết định. Don Bosco đã cầu nguyện lâu giờ, và đã gởi một thư tay bảo đảm viết như sau: “Hỡi người lính canh, vị thần sứ của Israel, hãy ở lại vị trí và canh phòng núi nhà Thiên Chúa và hòm bia thánh”. Đọc lời của Don Bosco, Đức thánh cha hiểu đó là tiếng Chúa, và ngài quyết định từ bỏ ý định rời bỏ Roma.
Những người có thể, họ tìm cách đến với Don Bosco. Do điều này chúng ta có thể tưởng tượng được sự mệt nhọc triền miên của những cuộc tiếp khách. Cha Giuseppe Oreglia, một linh mục dòng tên, qủa quyết rằng, chắc chắn rằng có những việc đền tội khác, nhưng riêng chuyện này không cũng đủ cho thấy nhân đức anh hùng của ngài như thế nào. Dân chúng bao lấy ngài khi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, trong thành phố cũng như ở miền quê, không chút gì dè giữ hay khoảng cách. Người thuộc mọi tầng lớp xã hội và mọi cấp bậc nối tiếp nhau để bàn hỏi với ngài; giáo sĩ và giáo dân, vua chúa và thường dân, người giàu và kẻ nghèo, người quen biết và kẻ xa lạ, người học thức và người thất học, người tốt cũng như kẻ xấu, họ ngồi đầy trong phòng đợi; nhiều bề trên của các dòng hay các cộng đoàn tu sĩ, các giám đốc đan viện, các nữ tu thường xuyên xin được nói chuyện với ngài.
Don Bosco, như một người không còn trách vụ nào, ngài tiếp đón hết mọi người không phân biệt, không nhìn vào mặt bất cứ ai: bất cứ ai đến, ngài tiếp họ như do Chúa gởi đến, luôn dùng cung cách dịu dàng dễ chịu. Ngài liên tục lắng nghe, chăm chú tới tất cả những gì người ta trình bày cho ngài, ngay cả nhiều khi chuyện chẳng có đầu đuôi của những con người khốn khổ. Có trường hợp đang khi ngài nói, người đối thoại cắt ngang lời ngài, ngài liền im lặng. Dường như ngài chẳng có một ý nghĩ nào về thế gian nữa. Ngài không bao giờ là người đầu tiên cắt đứt cuộc đàm thoại, cũng không ra hiệu rằng muốn cắt ngắn, dù rằng tới phiên ngài nói bởi vì nếu không ngài sẽ chẳng ngại lập lại những điều tương tự.
Ở Marsiglia, đang khi trao đổi với một bà mẹ người không muốn dứt câu chuyện, ngài được báo cho biết tới ba lần rằng có nhiều người đang đợi, ngài nói nhỏ với người nhắc rằng: “Cần phải làm mọi sự vào lúc thuận tiện hoặc không làm. Người ta không mất thời giờ ở đây. Ngay khi có thể, chúng ta sẽ để người khác vào”.
Một chứng nhân viết rằng tại Nguyện xá, trong căn phòng nhỏ bé của ngài “có không khí bình an của thiên đàng”.117 Nhưng vì không khí thiên đàng đó phát xuất từ con người của Don Bosco chứ không từ các bức tường, cho nên ngay cả ở bên ngoài, trong các cuộc thăm viếng hoặc trong các hành trình, người ta luôn tìm kiếm ngài. Nơi đâu ngài dừng chân, chung quanh ngài liền tạo thành một bầu khí chờ đợi an bình và tín nhiệm, vì tùy theo trường hợp, lời ngài giống như những lời tiên tri, như thần dược, như ngọn lửa thần bí.
Thần khí của Chúa, qua miệng Don Bosco, hoàn toàn tự do thổi nơi đâu Người muốn, dù người ta xin hay không xin, phát ra những lời khuyên cứu độ cho mọi hạng người, giàu nghèo, dốt nát hay học thức, người khiêm tốn hay thế gía. Luôn được soi sáng bởi Đấng ban phát sự soi sáng thuần khiết, ngài gieo những ý tưởng lành mạnh và thánh thiện không hề e dè bất cứ ai.
Hơn nữa bởi vì thần khí của Chúa ở trên môi miệng Don Bosco khi ngài khuyên nhủ nên ngài cảm thấy sự dễ dàng khi phải cho lời khuyên hay phải chỉnh đốn với một sự hiệu lực không thể đảo ngược, dù rằng ngài biết có thể gây ra nỗi cay đắng. Đây chính là những điều mà các linh mục, các tư giáo và các học sinh kinh nghiệm hằng ngày khi gần gũi ngài trong sân chơi, trong phòng ngài và trong tòa cáo giải.
Những lời khuyên trong sân chơi được gọi là những lời rỉ tai. Don Bosco khi có thể, ngài tham dự các trò giải trí với thanh thiếu niên và khi không thể ở giữa chúng nữa, thỉnh thoảng ngài vẫn xuất hiện, dùng các cơ hội thuận tiện để biết con cái ngài và để nói cho chúng một cách cá nhân vài lời thích hợp. Về điểm này ngài đặt vào trong Qui luật của các nhà khoảng này: “Hãy nhớ tới gương của đám gà con. Con nào càng gần gũi gà mẹ, càng nhận được từ gà mẹ những miếng mồi đặc biệt. Cũng thế ai gần với bề trên sẽ luôn có những lời nhắc nhở hoặc những lời khuyên đặc biệt”.118
Những năm cuối đời, không thể làm gì hơn, nên khi đi ở ban công tại thềm cửa phòng ngài, ngài dừng lại nhìn xuống các thanh thiếu niên trong sân chơi đang reo hò theo dõi những buớc đi chậm chạp và nặng nề của ngài, nói xuống phía dưới với chúng những lời tốt lành, còn đám trẻ thì đầy sự chăm chú lắng nghe và vỗ tay chào ngài. Những khi khác, các lời ấy nói với các cá nhân tùy theo nhu cầu mỗi người! Nhà giáo dục nào luôn để ý cảnh cáo, dễ dàng bị ngờ vực trước mắt các kẻ thụ giáo, chúng sẽ dấu diếm và khi thấy người ấy xuất hiện, chúng sẽ xa tránh. Thay vào đó các thanh thiếu niên của Nguyện xá yêu thích những lời nói rỉ tai và hơn nữa chúng còn xin Don Bosco. Đó là lời của Kinh thánh: Lời khiển trách nhỏ nhẹ bên tai giống như bông tai bằng vàng ròng đính ngọc qúi giá.[119]
Ngài thực hiện như thế này. Đặt một tay trên đầu học sinh và cúi xuống bên tai em, Don Bosco nói với em một cách riêng tư, tay kia che miệng để khỏi ai nghe thấy. Thực hiện điều này mất chỉ vài giây, thế nhưng có một hiệu qủa kỳ diệu! Chỉ cần quan sát dáng điệu và cử động của các em là thấy: một nụ cười nở rộ, một vẻ suy tư, một sự đỏ mặt, nước mắt xuất hiện, một tiếng trả lời vâng hay không, hoặc đáp lại bằng một lời nói nhỏ vào tai Don Bosco, một tiếng cám ơn và chạy đi chơi, hoặc chạy vào nhà thờ. Khi xảy ra hiện tượng này, em nhỏ nghe lời của Don Bosco không muốn rời khỏi ngài như thể bị hút trong một ý nghĩ trong sáng. Những hiệu quả khác xảy ra muộn hơn ví dụ như sự lãnh nhận các bí tích, sự chăm chú khi cầu nguyện, sự chuyên cần hơn trong bổn phận học hành, sự mở rộng và bác ái đối với các bạn.
Nhà viết sử kể lại rằng nhiều em mà có thể kể tên ra được, nhờ phương cách đơn giản này đã đạt tới một lòng đạo đức trổi vượt đến mức thực hành những việc đền tội phi thường, đến độ Don Bosco phải hãm các em lại; và nhiều em khác vào buổi tối đợi ngài ở cửa, thỉnh thoảng nhè nhẹ gõ cửa phòng ngài, bởi vì các em không muốn đi ngủ mà còn mang tội trong linh hồn.120
Về những lời rỉ tai, nhà viết sử trình bày cho chúng ta một vườn hoa, nhưng đó là những bông hoa dược thảo.121 Vườn hoa lột được cái vẻ sống động của sự diễn tả, của cách thức nhấn mạnh, của ánh mắt, của nụ cười và của tầm mức cá nhân của người nói; thiếu tính thời sự của sự việc như hoàn cảnh tâm lý của người nghe. Hình ảnh của Don Bosco giữa các thanh thiếu niên từ một chứng nhân bên ngoài nói như sau: “Tôi như thể còn thấy ngài mỉn cười với tôi, thấy ngài nói với tôi những lời ngọt ngào, thấy khuôn mặt đáng mến của ngài, khuôn mặt phản chiếu nét đẹp trong linh hồn của ngài”.122
Các lời khuyên của Don Bosco đã ban trong căn nhà đức ái đó, nếu thu thập lại trong khung cảnh giản dị chân chính của chúng, như người ta thấy trong một số ít những sách còn lưu giữ, sẽ tạo thành một bộ mật mã khôn ngoan Kitô giáo. Dù vậy ai đã nhận nó thì vui mừng tán dương giá trị, nhưng phần lớn người ta giữ lấy nó cho riêng mình vì sự kín đáo.
Người viết cuốn sách này luôn sống trong kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với Don Bosco trong những bức tường diễm phúc ấy: giây phút đẹp nhất là lúc nghe người cha tốt lành cho một lời khuyên quí báu về đời sống thiêng liêng, diễn tả bằng những lời rất giản dị, nhưng chính xác và được phát ra một cách bất chợt như một lời tiên tri, trong một giọng nói không biết là mang tính uy quyền hay tính phụ tử, đến độ vang lên trong lòng một dấu ấn.
Trong con tàu Noe tức là Nguyện xá, chẳng có ai ngay cả những kẻ nhỏ bé nhất, bị cản trở tới phòng của Don Bosco, chẳng có ai cảm thấy sợ hãi khi đi lên phòng của ngài. Tất cả đều được tiếp đón không phân biệt với cùng một cách thức. Don Bosco ngồi ở cái bàn viết mộc mạc, trên đó chất đầy thư từ và giấy mà ngài phải trả lời khi ngồi tiếp chuyện. Không hề bận tâm, ngài bỏ mọi sự qua một bên, chú ý đến người mà ngài vừa mời ngồi, như thể không phải nghe hoặc phải làm hài lòng một ai khác ngoài người đang ngồi đó. Hiển nhiên ra khỏi phòng ngài, người ta được soi sáng, được khích lệ và hài lòng.
Người kế vị nhà thần học Murialdo trong điều hành đám trẻ học nghề, sung sướng minh họa số phận của những người sống trong nơi thánh thiện, nơi tỏa chiếu ơn soi sáng đó. Ông nói: “Các bạn thật là may mắn trong nhà của các bạn, điều mà chẳng ai ở Torino cũng như các cộng đoàn tu sĩ khác có được. Các bạn có một căn phòng, trong đó bất cứ ai khi vào lòng đầy đau khổ, ra khỏi đó tỏa rạng niềm vui”. Về sự thật này, nhà viết sử chú giải rằng “cả ngàn người chúng tôi đã nghiệm thấy điều đó”.123
Các lời khuyên khi giải tội cũng đem chúng ta trở lại vấn đề đã đề cập. Một trong những môn đệ từ thời đầu của vị thánh viết về ngài như một vị giải tội,124 dùng ba tĩnh từ có thể cô đọng tất cả: “nhân ái, phù hợp, khôn ngoan”.
Những giai thoại ngắn nhưng xúc tích sẽ minh họa đầy đủ ba tính chất mà người nhân chứng khẳng định theo lương tâm của mình.
Về Đức ái. Một ngày nọ trong những năm cuối đời của ngài, đang khi ở giữa một số các Salêdiêng, Don Bosco buột miệng nói: “Đêm hôm qua cha mơ thấy mình muốn đi xưng tội. Trong phòng thánh lúc đó chỉ có linh mục. Nhìn cha đó từ xa và thấy sức chống cưỡng lại. Cha nói với mình: - Ngài quá nghiêm khắc!”. Các hội viên liền thích thú bật cười nhìn về phía người vừa bị nêu tên. Người này cũng cười như những người khác và nói cách vui vẻ: “Ai có thể tưởng tượng được điều đó? Tôi làm Don Bosco sợ sao!”. Cảnh này là một bài học cho tất cả; ai lại không hiểu điều đó áp dụng cho mình? Về sự phù hợp, và cả không phù hợp. Mọi người đồng tâm cho rằng khi giải tội Don Bosco không nói nhiều, nhưng nói những lời mà các tâm hồn khao khát, tuỳ theo mỗi hoàn cảnh, ghi khắc vào trong họ ý nghĩ về bí tích và những quyết định vững chắc.
Một bạn trẻ ở bên ngoài thường đến sinh hoạt trong Nguyện xá, em nhận lời mời hát trong một cảnh tôn giáo tại Nhà hát Hoàng gia Torino. Xem chừng đó là một vinh dự cho nhà Nguyện xá! Nhưng Don Bosco không nghĩ như thế; lo sợ về phần rỗi cho linh hồn con cái ngài, ngài biết rằng một đứa con của Nguyện xá đi vào rạp hát thì rất nguy hiểm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ngài cấm em? Các bề trên tỏ ra bối rối. Ngày Chúa nhật khi giải tội ngài khuyên nhủ em và em đã hủy bỏ không hề hối tiếc, và để mọi người khỏi xôn xao bàn tán, em nói với những người em gặp: “về chuyện lương tâm, thì cha giải tội là người quyết định”.
Về sự khôn ngoan. Một trong những lý tưởng được Don Bosco khuyên nhủ, đó chính là gia tăng số các chủng sinh nhà Chúa. Sự xác tín khi ngài nói dưới sự linh hứng của Chúa khiến ngài cảm thấy phải khuyên nhủ nhiều về ơn gọi của họ. Một lời có hay không của Don Bosco trong vấn đề có tầm mức quan trọng này xóa tan mọi nỗi nghi ngờ. Trong tiến trình án phong thánh tại tông tòa, rất nhiều chứng nhân nói về điểm này trong lòng nhiệt thành linh mục của Don Bosco, họ trình bày một sự nhất tâm nói rằng chưa hề nghe nói có ai hối tiếc vì đã nghe lời ngài, để đi theo hoặc không đi theo ơn gọi giáo sĩ, cũng như không có ai không thất bại khi thích theo ý riêng mình, mà không gánh lấy đau khổ.
Trong một bản ký sự không xuất bản còn lưu giữ kỷ niệm về một biến cố nhỏ, vốn hầu như kịch tính hóa hiệu qủa của lòng bác ái, sự phù hợp cũng như sự khôn ngoan mà Don Bosco để lại trên tâm hồn của các thiếu niên đến xưng tội với ngài. Một đứa trẻ sau khi xưng tội, xin Don Bosco một ơn huệ trước khi ra khỏi tòa giải tội: em xin phép được hôn chân ngài. Vị đầy tớ Chúa, không chút do dự nói: “Không cần làm thế. Con hãy hôn tay cha như hôn tay một linh mục”. Đứa trẻ hôn tay phải của ngài, rồi kêu lên: “Con đã có thể may mắn biết bao, nếu trước đó con đã mở mắt ra như chiều nay cha mở mắt cho con!”.
Thần khí của Chúa, Đấng rộng ban cho Don Bosco khi trợ giúp ngài trong việc cần mẫn cho lời khuyên, cũng soi sáng cho ngài khám phá ra những tội thầm kín và những ý nghĩ dấu ẩn, nơi người ở gần cũng như người ở xa.
Một sự kiện đánh động chúng ta liên quan đến đặc ân siêu nhiên này, đó là Don Bosco nói cách không dấu diếm. Trong một tài liệu trong năm 1861 chúng ta đọc thấy:125 “Đã mười năm khi tôi tới Nguyện xá, tôi nghe Don Bosco nói: Hãy cho tôi một đứa trẻ mà trước đó tôi chưa biết, sau khi nhìn thẳng vào nó, tôi sẽ cho nó biết tội của nó, bắt đầu từ những năm thiếu thời”. Một bản ký sự viết tay ngày 23 tháng tư năm 1863, viết về bài huấn từ tối ngày hôm trước, trong đó Don Bosco giữa các điều khác, nói rằng: “Trong những ngày tĩnh tâm này cha thấy được tâm hồn của các thanh thiếu niên như cha đọc một cuốn sách: cha thấy rõ ràng và phân biệt mọi tội lỗi và mọi rối loạn của chúng”. Người viết tài liệu đề ngày 25 cũng trong tháng đó viết: “Tôi đã hỏi Don Bosco xem ngài đọc được rõ ràng những điều trong tâm hồn thanh thiếu niên khi ngài giải tội hay cả khi ngoài toà giải tội. Ngài trả lời tôi: - Từng giờ trong ngày, ngay cả ngoài tòa giải tội”. Điều này cho thấy phải hiểu rằng không phải việc đọc thấy lương tâm là điều liên tục, nhưng rằng được ban cho ngài từng lần khi ngài xin vì lợi ích các linh hồn.
Ai biết được tại sao Don Bosco người giữ kín những gì giữa ngài và Thiên Chúa, lại có thể mở miệng tự do về những thông tin này? Một lý do chính yếu phải có; mà có lẽ có đến hai lý do. Thứ nhất vì sự rõ rành của sự việc khác mức bình thường và không thể dấu diếm mà không gây nên sự bàn tán trong thế giới nhỏ bé của Nguyện xá; bởi thế sự thận trọng muốn làm sáng tỏ các ý nghĩ bằng sự đơn sơ minh bạch để đánh tan mọi bóng dáng của sự nghi ngờ về nguồn gốc và tính chất của sự việc.
Lý do thứ hai còn nặng ký hơn. Don Bosco, một người nhiệt thành tìm kiếm các linh hồn bằng phương thế giải tội, biết rằng kẻ thù mạnh mẽ chống lại ngài chính là thằng qủi câm lặng, vốn lường gạt nhiều người ngay trong tòa giải tội bằng sự thiếu chân thành. Đây chính là cơn ác mộng thường xuyên đối với ngài. Một cha xứ đạo đức người Pháp, từng thường xuyên giảng các tuần đại phúc và tĩnh tâm, kinh sợ khi nhìn thấy nhiều linh hồn phạm thánh bởi xưng tội không tử tế, nhưng sợ rằng đó chỉ là ảo ảnh của mình, đã viết cho Don Bosco để xin phán đoán của ngài về nỗi lo lắng của mình. Don Bosco trả lời: “Sao ngài nói điều này với tôi, điều mà tôi đã giảng khắp cả nước Ý, và tôi không thấy điều ngược lại?”.126
Một thời, trong những năm đầu đời linh mục, ngài tin rằng các con cái ngài đã có một sự tín nhiệm không giới hạn đối với mình; tuy nhiên sau đó ngài cũng nhận ra rằng ma qủy thì khôn lanh hơn ngài.127
Vẫn lấy từ ký sự ngày 12 tháng tư năm 1861. Một tư giáo ngạc nhiên khi nghe rằng không ít người giấu tội khi đi xưng tội ngay cả khi có nhiều cha giải tội, Don Bosco bảo rằng không phải tất cả các cha giải tội đều có “khả năng, kinh nghiệm và phương thức để xem xét lương tâm và khám phá ra những con sói đang cấu xé các tâm hồn”, và ngài kết luận: “Có hai con thú ghê tởm đó là sự xấu hổ khi xưng tội và sự sợ hãi bị mất tiếng nơi các cha giải tội”. Đây chính là chỗ phải tìm để biết tại sao ngài ra khỏi e dè cẩn trọng của mình. Khi Don Bosco đọc các tâm hồn, ngài khám phá ra những điều kín ẩn; nhưng khi ngài nói các tội của hối nhân, thì tên cám dỗ không lường trước được điều đó.
Vì thế cần phải bảo cho tất cả biết trước, rằng tại tòa giải tội của ngài cạm bẫy của ma quỉ có thể bị lột mặt nạ; bởi thế đừng để mình bị lừa gạt, nhưng hãy lợi dụng ân huệ của Thiên Chúa để bảo đảm cho linh hồn của chúng. Bởi đó phải hiểu đây là chuyện trong nhà. Rất nhiều lần các học sinh, qùi gối xin ngài nói cho chúng tội của chúng; điều này Don Bosco làm trong một sự chuẩn xác khiến chúng phải kinh ngạc. Có một lời khuyên ngài nói với thanh thiếu niên trong bài huấn từ tối và cha Lemoyne đã trình bày trong án phong thánh: “Cho tới lúc này, khi xưng tội, các con thường nói: - Xin cha nói. Và cha đã nói. Nhưng điều quan trọng là hối nhân chứ không phải cha giải tội. Cha sẽ không nói giờ này qua giờ khác nữa; cái bao tử khốn khổ của cha làm cha đau đớn. Từ nay trở đi các con phải nói và khi nào các con bị lầm lẫn, cha sẽ giúp”.
Ngay cả ngoài tòa giải tội Don Bosco cũng thấy cách rõ ràng các tội và ý nghĩ.
Bên trong các cộng đoàn có các kiểu nói tạo thành một khung cảnh nội bộ, mang một ý nghĩa qui ước, không thể giải thích bằng việc tra tự điển. Trong cuốn sách này khung cảnh đó là Nguyện xá, câu nói đọc trên trán, có nghĩa qui chiếu về Don Bosco khi ngài đoán nghĩ được tội.
Sự tin tưởng rằng, khi nhìn vào trán, Don Bosco đọc được những dấu hiệu của các khuyết điểm dấu ẩn, là điều rất bình thường đến nỗi các thanh thiếu niên, khi lương tâm chúng không trong sáng, không dám đến gần ngài vì sợ ngài đọc được các tội của chúng trên trán. Trái lại, nếu được gọi tới hoặc có lý do gì đó phải đến gặp ngài, chúng che mặt với một cái mũ hoặc để tóc xõa che mặt.
Người ta hiểu rằng Don Bosco để mặc cho kiểu nói này được lưu hành, bởi vì ngài cần nó để dấu đi cái tính chất mầu nhiệm của sự việc. Tuy nhiên người ta thuật lại những giai thoại về những kẻ trơ trẽn không thấy vấn đề là nghiêm trọng và thách thức Don Bosco nói tội của họ ngay cả nơi công cộng. Trong những trường hợp này chiến thuật của ngài luôn luôn như một: kéo kẻ bất cẩn kia ra riêng một nơi, thận trọng nói vào tai kẻ ấy, khiến hắn ngỡ ngàng, đỏ mặt, và bật khóc.
Cũng tương tự như thế đối với các ý nghĩ; dù rằng việc đọc các ý nghĩ không nhiều lắm. Cá nhân Don Rua do kinh nghiệm làm chứng rằng, có lúc ngài tin cần giấu kín một số công việc, dù rằng Don Bosco có quyền biết, nhưng mọi nỗ lực để giấu đều vô hiệu, bởi vì khi nói, Don Bosco chứng tỏ là mình biết hết tất cả mọi chi tiết. Một thầy tư giáo, lo lắng sợ hãi khi đang xét mình để xưng tội, nghĩ trong bụng rằng: “Nếu Don Bosco, khi quay lại phía tôi, nói với tôi ngày mai đi rước lễ không cần xưng tội, thì tôi sẽ hiểu rằng mọi lo lắng của tôi chỉ là do ma qủi”. Và đến lúc chập tối, thì có bàn tay đập vào lưng vai thầy, và tiếng nói của đầy tình cha của Don Bosco nói vào tai thầy: “Ngày mai con cứ đi rước lễ không cần phải xưng tội”.128
Vẫn đang nói về các ý nghĩ, chúng ta đề cập tới một giai thoại nhỏ, được biết vào năm 1929, hữu ích để giúp chúng ta biết thêm về tinh thần của Don Bosco. Một thầy tư giáo khác, sau trở thành Don Eugenio Reffo, vị đồng sáng lập dòng Giuseppini, người đã đi theo bề trên của mình là nhà thần học Murialdo vào tận trong phòng của Don Bosco, và đứng ở một góc trong phòng đang khi hai vị đầy tớ Chúa thì ở góc đối diện trò chuyện. Từ dưới sân chơi vang lên tiếng động của đông đảo thanh thiếu niên trong giờ giải trí cùng với tiếng ban kèn vang dội của đám học sinh tập dợt. Thầy tư giáo trẻ nghĩ thầm trong bụng: “Tôi sẽ chẳng bao giờ cho phép gây tiếng động qúa như thế!.. Thiên Chúa không ở nơi náo động”. Khi ấy Don Bosco chợt dừng cuộc trò chuyện, đi tới thầy và nói: “Thế mà Don Bosco có lý đấy”. Rồi ngài dùng hai tay bắt chước người đánh xèng và đánh trống: “Cin-cin, bum-bum. Như thế, Chúa muốn thế đó. Ồn ào, vui tươi, âm thanh đủ loại… cin-cin, bum-bum… vào đúng lúc của nó”.129
Từ xa ngài biết cả những thông tin lạ lùng về những điều còn kín ẩn. Từ Nguyện xá ngài viết cho các trường, hoặc từ những nơi khác ngài viết về Nguyện xá, thông báo cho các bề trên điều xảy ra trong nhà mà họ chưa biết và chắc chắn ngài không thể nào biết được nếu không phải là do mạc khải. Ngài chỉ ra tên tuổi, nơi chốn, hoàn cảnh tới mức chính xác hoàn hảo. Khi nói về những thiếu sót, những người được gọi tới để hỏi han tỏ ra đầy ngạc nhiên và không biết phải cáo lỗi thế nào.
Một buổi tối, trong buổi huấn từ như thường lệ, bởi vì bầu khi gia đình thân mật trong giây phút ấy nên cũng có thể hỏi chuyện này chuyện kia công khai, Don Rua người thay mặt Don Bosco tại Nguyện xá, đưa tay làm hiệu và hỏi ngài làm sao ngài có thể biết được từ xa các sự việc. Ngài trả lời cách khôi hài: “Nhờ vào đường dây điện tín, nên từ xa cha có thể liên lạc được, thấy được và biết được để làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho các linh hồn”. Tại Barcellona năm 1886 có gì đó khác ngoài thư từ và điện tín!
Người viết sách này, đã nghe từ vị giám đốc ấy tường thuật tỉ mỉ về sự kiện xảy ra, tính cách lịch sử của nó không thể bị phủ nhận. Don Bosco, lúc đó đang ở Nguyện xá, thế mà vị giám đốc nhìn thấy ngài ở đó vào lúc nửa đêm ở bên cạnh giường mình, đánh thức và dẫn vị giám đốc đi như giữa ban ngày một vòng chung quanh nhà, chỉ cho thấy những chỗ xáo trộn, rồi dẫn về phòng, ra lệnh cho ngài phải lập tức có biện pháp và rồi Don Bosco biến mất, để lại vị giám đốc đứng đó một mình, trong bóng tối, đầy bàng hoàng sửng sốt.
Chú thích
115 Cfr. S. Theol., III, q. XXVII, a. 4.
116 Mons. Landrieux, Ev. de Dijon, Le Divin Méconnu, p. 163.
117 Luật sư C. Bianchetti. Diễn văn đọc trong buổi tưởng niệm Don Bosco 24 tháng sáu năm 1903.
118 Qui luật dành cho các nhà của Tu hội Salêdiêng, khoảng 763.
119 Châm ngôn 25, 12.
120 Mem. Biogr., vol. VI, p. 417.
121 L. c., p. 416; cfr. p. 433.
122 Thư của cha xứ D.E. Sacco gởi Don Rua (năm 1888).
123 Lemoyne, L. c., vol. VI, 441.
124 Francesia, L. c., p. 6.
125 Tường trình của dott. D. Giov. Turchi, người mà cha Lenoyne gọi là “con người thận trọng khi tin, người phê bình khắc nghiệt” (L.c., vol. VI, p. 453).
126 Zelle S. I. , Việc xưng tội theo giáo huấn của các bậc thầy, p. IX, Tip. Sal., S. Pier d’Arena, 1896.
127 Francesia, L. c., p. 84.
128 Francesia, L.c., p. 80. Cha Lemoyne kể lại sự kiện này mà không nêu tên. Cha Francesia cho chúng ta biết thầy tư giáo đó chính là ngài, ngài thêm một chi tiết này vào trong tuờng thuật: “Tôi đã già, và ở tuổi tôi không nên giả vờ kẻo bị che cười”.
129 Xem bài viết của nhà thần học Vaudagnotti, giáo sư lịch sử Giáo hội của đại chủng viện Torino, trong Corriere d’Italia ngày 22 tháng năm 1929.