Chương XV. Vị tồng đồ đức ái

Giờ đây chúng ta tiếp tục thu lượm một vài đường nét hiện thực để hoàn thành diện mạo của Don Bosco đã trình bày cho tới đây. Đi theo từng bước cuộc sống của ngài, chúng ta đã có thể nhận ra cái tinh thần đã sinh động ngài trong các lứa tuổi và trong các biến cố khác nhau. Chúng ta đã rảo qua cuộc sống thiếu thời và tuổi trẻ, thầy tư giáo và linh mục trẻ, vị sáng lập các công cuộc và thừa tác viên của Chúa. Mọi giai đoạn ngài luôn bị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành vì vinh danh Chúa và phần rỗi các linh hồn, và đã bị thử thách bởi những nỗi quẫn bách hầu như liên tục đủ mọi loại, nhưng đã không khi nào đánh mất sự bình thản, vì đó là sự bình an và thanh thản đến từ sự kết hợp sâu xa, liên tục và hoàn hảo với Thiên Chúa. Và bởi vì tất cả cuộc sống của Don Bosco là một đời tông đồ bác ái, chương này sẽ dành để khảo sát xem đâu là nét riêng của đời tông đồ của ngài. Đề tài tự nó rộng, nhưng chúng ta sẽ không đi quá xa với giới hạn của cuốn sách này.

Don Bosco cốt yếu là một tông đồ. Vị tông đồ là người được sai đi. Don Bosco đã được sai đi vì một sứ mệnh đức ái chuyên biệt, dù rằng không có tính độc hữu, dành cho giới trẻ, đó là sứ mệnh do Chúa quan phòng. Khi kêu mời ngài thực hiện việc tông đồ này, có hai phương tiện được chỉ dẫn cho ngài, hai phương tiện mà ngài phải tự chuẩn bị: phải học biết khiêm nhường, mạnh mẽ và cường tráng, và rồi phải trang bị cho mình có kiến thức. Sự chuẩn bị trước hết về thể lý, luân lý và tu đức, rồi đến khoa học. Tương lai sẽ làm cho ngài hiểu điều mà ngài chưa hiểu.

Thực hiện sự ủy thác đòi hỏi sự làm việc vất vả, trải qua những khó khăn và chống đối cũng như việc học hỏi và giáo dục lâu dài; đòi hỏi một sức khỏe tốt, biết làm chủ tính tình, có trình độ hiểu biết. Có lẽ ngài đã được phú bẩm cho những tài năng tự nhiên, điều mà Thiên Chúa muốn có khi đặt định một người vào sứ mệnh đặc biệt, như thể đó là điều kiện không thể thiếu để chu toàn sứ mệnh. Nhưng sẽ không đủ khi chỉ dựa vào nỗ lực nhân loại hay dựa vào những nhân đức tự nhiên, vốn không đáp ứng được chương trình của Thiên Chúa. Luôn cần đến và nhất là sự trợ giúp của ân sủng thần linh, điều sẽ không được ban nếu không có sự khiêm nhường. Thánh Toma dạy rằng: “Sự khiêm nhường là một dự thế làm cho linh hồn dễ dàng đạt được những ơn ích thiêng liêng và thần linh”.105

Với sự khiêm nhường trong suốt cuộc sống, Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian; cũng không bằng con đường khác Don Bosco đã chiến thắng những chuỗi trở ngại của kẻ thù của sự thiện, và đã hoàn tất được kế hoạch Thiên Chúa trao phó. Cần có sự quan phòng chuẩn bị cho ngài những cơ hội để nên vững chắc trong sự khiêm nhường: hoàn cảnh sinh trưởng khiêm tốn, hai năm lao động làm thuê, hoàn cảnh phục dịch từ năm mười sáu đến hai mươi mốt tuổi.

Như thế tinh thần ngài, vốn sau này sẽ cảm thấy mình được chuẩn bị làm những việc lớn lao và được kính trọng, tiến lên đang khi trải qua sự hy sinh và không tìm cớ thoái thác ngay cả bị khổ nhục mỗi khi vinh quang Thiên Chúa và ích lợi của tha nhân đòi hỏi, không bao giờ ngừng coi mình chỉ là một dụng cụ nhỏ bé trong tay Chúa. Đức khiêm nhường trở thành bí quyết của sự kết hợp mật thiết của ngài với Thiên Chúa, vốn là nguồn mạch từ đó phát ra mọi hành động bên ngoài. Đây chính là dấu chỉ của mọi vị tông đồ chân chính.

Cũng không thể bỏ qua sự kiện là bài học về sự khiêm nhường này là do chính Mẹ của Thiên Chúa dạy ngài. Việc tông đồ của Don Bosco ghi dấu sự can thiệp của Mẹ Maria như một đặc tính riêng. Mẹ Maria Phù Hộ và Don Bosco có thể trở thành đầu đề của một vần thơ tuyệt vời, chính ngài lập lại nhiều lần cho tới khi thở hơi cuối cùng: “Don Bosco không là chi cả, người làm tất cả chính là Đức Mẹ”.

Mỗi việc tông đồ đều có một mục đích riêng và rõ ràng. Giống như mọi vị thánh, Don Bosco thực hành đức ái phổ quát, phù hợp theo hoàn cảnh. “Làm tốt cho mọi người, không làm điều dữ cho bất cứ ai” là một phương châm mà ngài thường được lập đi lập lại cho tới khi qua đời.

Trong lãnh vực bác ái, vốn trải rộng như sự rộng lớn của các nhu cầu của con người, có một phần đặc biệt dành riêng cho ngài: giáo dục Kitô giáo cho con cái của dân chúng. Hiến thân cho công cuộc này, ngài đã lập ra hai gia đình tu sĩ, thông truyền cho họ tinh thần của ngài. Tinh thần nào? Bỏ qua một bên những yếu tố chung, tôi dừng ở ba điểm đã được nhấn mạnh bên trên, mà chúng ta có thể gọi là riêng biệt và đặc trưng: tinh thần bác ái năng động, bác ái vui tươi và đức ái không lệ thuộc.

Yếu tố thứ nhất: sự năng động, hay nếu muốn, có thể gọi là tinh thần làm việc. Có lẽ khó mà tìm thấy một vị thánh khác ở trong cùng mức độ của Don Bosco, đã sử dụng và khiến người ta sử dụng động từ làm việc. Đối với Đức thánh cha Pio XI cuộc đời của Don Bosco là “một cuộc đời của công việc khổng lồ”.106

Có lẽ không ai nhấn mạnh khía cạnh này của cuộc sống Don Bosco cho bằng đầy tớ Chúa Leonardo Murialdo trong chứng từ sau đây: “Tôi không thấy Don Bosco cầu nguyện lâu giờ hay làm việc đền tội phi thường, nhưng tôi thấy ngài làm việc không mệt mỏi, không ngừng nghỉ trong một chuỗi năm tháng dài vì vinh danh Chúa. Những vất vả của ngài không bao giờ gián đoạn, cai phi thường là giữa những thánh giá và chống đối đủ loại, với sự bình tĩnh và thanh thản, tất cả chỉ để làm vinh danh Chúa và ích lợi của các linh hồn”.107

Về sự làm việc, Don Bosco có một lý thuyết riêng cho mình và cho con cái ngài liên quan đến cách thức. Đối với riêng ngài, điều ngài viết giữa những quyết định dịp chịu chức linh mục, liên quan đến làm việc như một vũ khí chống lại kẻ thù của linh hồn. Tuy nhiên ngài không có ý nói đến bất kỳ công việc nào. Theo ngài, vị linh mục dù có bổn phận làm việc và làm việc thật nhiều, đến độ, nếu mất mạng sống, thì cũng không làm gì hơn bổn phận mình. Đây chính là mục đích, là vinh quang của linh mục: không bao giờ mệt mỏi khi làm việc cho phần rỗi các linh hồn.

Ngài cảm thấy được kêu gọi để làm việc nhiều, ngài cho rằng nếu không có những mệt nhọc lớn lao thì chẳng bao giờ có thể đạt được những điều lớn lao. Ngài còn tin rằng thế giới ngày nay muốn nhìn thấy các linh mục làm việc và nghiệm thấy rằng kẻ thù của Giáo hội kính nể các linh mục làm việc. Ngài cho rằng ngày nay cầu nguyện mà thôi thì không đủ đối với các linh mục. Cần phải làm việc, làm việc một cách mạnh mẽ.

Khởi từ những nguyên tắc này, người ta không ngạc nhiên thấy ngài sử dụng tất cả mọi sức để làm việc cho vinh quang Chúa và phần rỗi các linh hồn; và khi được khuyên nhủ hãy nghĩ ngơi một chút, ngài trả lời một cách thích thú rằng: “Cha sẽ nghỉ ngơi khi nào cha lên trên mặt trăng”. Sức vóc thể lý của ngài có thể cho phép ngài sống đến hơn chín chục tuổi; nhưng thay vào đó nó đã tiêu hao, nó đã tiêu hao theo nghĩa đen vì đã làm việc thái qúa ngày lẫn đêm. Vì lẽ đó người ta có thể tin được lời các nhân chứng nói rằng vào tuổi bảy mươi ngài đau khổ khi nghĩ đến nhiều công việc mà ngài có thể làm trước đó, đang khi giờ đây cả sức lực và thị giác không còn lấy được một phần trăm.

Chính tinh thần làm việc chăm chỉ này là điều ngài muốn nhìn thấy nơi Tu Hội Salêdiêng. Ngài đã nói một cách công khai với những người xin vào Tu hội: “Tinh thần của Tu hội chính là điều này, đừng ai vào đó với hy vọng đứng tay chống nạnh”. Kinh nghiệm sống của thời đầu Tu hội khích lệ người ấy phải làm việc không kỳ nghỉ hưu chiến.

Vì không thể nói một cách tự do về đời sống tu sĩ vì bầu khí thù nghịch đang bao trùm khắp nơi, và lại có nhu cầu đề cập về điều đó cho các tư giáo trẻ của Nguyện xá theo cách thức phù hợp, ngài không đòi hỏi nhiều trong vấn đề thực hành đạo đức, nhưng về sự làm việc thì tới mức người ta không thể làm thêm. Thế thì điều gì đã xảy ra? Các tư giáo nếu bị bó buộc với những luật lệ gò bó có lẽ họ sẽ bỏ đi, còn ngay cả dù có được thoải mái họ lại làm việc các tự nguyện và dưới sự hướng dẫn của ngài, khi hoàn cảnh thay đổi, đã trở thành các linh mục Salêdiêng có tinh thần rất cao.

Sau đó, khi mọi sự đã ổn định, ngài có lý do để nói tới một kinh nghiệm khác, tức là sự lười biếng làm việc là một trong những nguyên nhân làm xa rời đời tu sĩ. Sự làm việc liên tục, ngoài việc làm phát triển nhiều khả năng hoạt động mà nếu không có sẽ ngủ yên trong tiềm năng, cần thiết để duy trì ơn gọi. Đức Pio IX cũng xác nhận cách Don Bosco nhìn về lao động. Vị giáo hoàng này đã hai lần bảy tỏ rằng suy tư của Don Bosco đồng bộ với suy tư của ngài.

Năm 1869 ngài nói rằng ngài cho rằng một Dòng ở tình trạng tốt là khi người ta cầu nguyện ít và làm việc nhiều, đang khi trong một Dòng cầu nguyện nhiều và làm việc ít thì không ổn. Bởi vậy năm 1874 ngài cho phép ủy thác cho các tập sinh những công việc mà theo Hiến luật dành cho thời sau khi khấn. Đức thánh cha nói: “Hãy làm cho họ bận rộn vì làm việc, làm việc!”.

Khi đặt ra điều này, Don Bosco không giảm bớt công việc cho con cái mình. Ngài nhắc nhở phải chăm lo trở nên thánh thiện, nhưng là để có thể làm việc nhiều. Mẫu gương và lời nói của ngài là sức kích thích mạnh mẽ và hiệu lực. Ngài tỏ lộ một sự mãn nguyện rõ rệt khi thấy những người lớn lên trong Tu hội đạt tới sự yêu thích làm việc, hơn thế nữa một sự hăng say làm việc không ai vượt qua được. Ngài nói: “Bao lâu còn làm việc như thế, chúng ta sẽ tiến lên như buồm căng gió”.108

Nhìn thấy sự sẵn sàng làm việc như thế, ngài nhiều lần đã có thể tự cho phép mình nói rằng: “Khi một Salêdiêng chết đang khi làm việc cho các linh hồn, lúc đó Tu hội chúng ta đạt được một chiến thắng lớn, và Thiên Chúa sẽ ban nhiều ơn lành cho Tu hội”. Trường hợp tương tự cũng xảy ra về việc truyền giáo. Bởi thế trong báo cáo tam niên cho Toà thánh vào năm 1879 về tình trạng của Tu hội ngài không ngần ngại viết rằng: “Công việc vượt qúa sức lực và con số các nhân sự, nhưng không ai tỏ ra khó chịu, và dường như sự mệt nhọc lại là của ăn thứ hai sau lương thực vật chất”.109

Nhưng một đàng là làm việc nhiều, đàng khác là làm việc cho tốt. Ai lại không biết rằng việc tông đồ, đang khi có thể và phải là phương tiện để thánh hóa, thay vào đó, đối với người để mình bị các hoạt động bên ngoài thống trị, lại trở thành một nguyên do khiến đời sống thiêng liêng giảm thiểu đó sao? Không cần ai đó chỉ, Don Bosco biết mối nguy hiển nhiên đó. Chúng ta có thể nại tới phán quyết của Đức Pio XI, một người biết con cái Don Bosco và biết chính Don Bosco.

Trong diễn từ ngày 19 tháng mười một năm 1933 để nhìn nhận các phép lạ, ngài nói: “Người ta tự hỏi đâu là bí quyết của tất cả sự kỳ diệu của công việc này. Chính vị chân phước cho chúng ta sự giải thích, chìa khóa của sự kỳ diệu vĩ đại là: sự khao khát liên lỉ, sự cầu nguyện liên lỉ; bởi vì không ngừng đối thoại với Thiên Chúa và hiếm có ai như ngài xác quyết câu phương châm người làm việc thì cầu nguyện, bởi vì ngài đã đồng hóa được công việc và kinh nguyện.

Đối với những người khác, ngài không hài lòng thấy họ làm việc nhiều, nhưng dạy họ làm việc một cách thiêng liêng, nghĩa là với đức tin, đức cậy và đức ái. Với đức tin, khi trong mọi việc luôn luôn tìm ý Thiên Chúa không bao giờ tìm lời khen của con người; với đức cậy, khi khát mong phần thưởng trên trời cho những lao nhọc trên trần và không khát mong sự thỏa mãn nhỏ nhoi dưới đất; với lòng mến hướng về Thiên Chúa, khi dâng mọi sự mệt nhọc lên cho Ngài, vì chỉ mình Ngài đáng yêu và đáng phục vụ, cũng như lòng mến hướng tới cận nhân khi chỉ tìm kiếm duy nhất lợi ích của các linh hồn, bằng sự dịu hiền của thánh Phanxicô Salê và sự kiên nhẫn của Giob.

Ngài sợ, rất sợ rằng hiệu quả và công lao của việc làm sẽ trở thành mây khói do sự tìm kiếm ý riêng. Bởi thế cần chiến thắng và từ bỏ, phải nhìn công việc từ nhãn quan Kitô hữu và tu sĩ, trước hết trong chu toàn bổn phận của bậc sống mình, dù ý riêng có cảm thấy thích hay không. Sau khi nhận được một tiếng nói từ trời vào năm 1876, ngài thường hay nói: “Làm việc và tiết độ sẽ làm phát triển Tu hội Salêdiêng. Đó là hai khí giới nhờ đó chúng ta sẽ chiến thắng mọi sự”. Tiết độ là nhân đức thứ hai mà ngài cho rằng đi đôi không thể thiếu với làm việc.

Để khích lệ tinh thần, trong một số hoàn cảnh nào đó ngài thích trình bày sự lợi ích tuyệt vời mà Tu hội được kêu mời thực hiện trên thế giới, và ngài trình bày một cách sống động như thể có rồi; nhưng sau cùng ngài cảnh cáo chống lại mọi sự tự phụ, khuyên mọi người hãy biết thêm vào sự làm việc và tiết độ lòng khiêm nhường. Tóm lại, phải nói rằng Tổng tu nghị lần đó của Tu hội đã được gợi hứng, khiến trong Qui luật cho các nhà tập đã xác định một bổn phận cho tập sư phải nhỏ vào trong tâm tư của tập sinh “sự cần mẫn làm việc không mệt mỏi được thánh hóa bởi kinh nguyện và bởi sự kết hiệp với Thiên Chúa, phải là đặc trưng của con cái Don Bosco”.110

Và rồi trong đức ái cần mẫn của Don Bosco, đặc biệt để phục vụ con cái của dân nghèo. Ở điểm này tôi quay lại bốn chương trong đó bàn về Don Bosco, vị giải tội, vị giảng thuyết, người viết văn và nhà giáo dục. Tại đó người ta thấy được sự cần mẫn lao tác không ai sánh bì, được gắn liền thế nào với chiều sâu nội tâm hoàn hảo, khiến ngài trở thành một vị thánh hoàn toàn đặc biệt.

Việc tông đồ bác ái của ngài mang tính năng nổ cần mẫn, nhưng là của một đức ái vui tươi. Bài đọc trong lễ thánh Gioan Bosco trích từ thánh Phaolo bắt đầu với những lời: Anh em hãy vui luôn trong Chúa; tôi nhắc lại, anh em hãy vui lên.111  Đúng thế! Sự vui tươi ở trong ngài và phát xuất từ ngài. Có biết bao lý do làm ngài có thể buồn từ khi còn tấm bé cho đến khi tuổi già! Thế mà chứng từ từ những người hiểu rõ ngài, đều nhất mực khẳng định rằng tính vui tươi là đặc điểm của tất cả cuộc sống ngài. Ai sẽ nói được rằng ngài đã chịu cả ngàn nỗi đau đớn khi ngài cho thanh thiếu niên những bài huấn từ tối đầy thích thú vì tính vui tươi và khôi hài hay khi ngài xuống sân chơi trong sự thanh thản và mỉn cười nói ra những câu khôi hài làm thức tỉnh sự vui nhộn và gây nên bao điều tốt cho người mà ngài nhắm tới?

Có những lá thư cho thấy ngài viết đang khi mệt nhọc và nhiều bất tiện, thế mà luôn mang có màu sắc của sự vui tươi, với mục đích nói vào trái tim người nhận và đặt vào đó hạt mầm của những tâm tình tốt đẹp. Mẫu gương của ngài cũng ảnh tương tự trên những người có may mắn được sống với ngài, khiến họ dù không nhận ra nhưng lại có khuynh hướng chấp nhận những điều trái ngược với cái ý thích riêng với một sự bình thản trong tâm hồn và ngay cả với nụ cười thanh thản. Từ tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, xuất phát trong lòng Don Bosco niềm vui thiêng liêng bất tận, làm cho ngài thanh thản trong một cảnh huống của cuộc sống và trở thành người đem sự an tâm cho mọi con cái của ngài.

Tới đây tôi không thể bỏ qua trong yên lặng hai điều chịu ảnh hưởng của đức ái vui tươi này. Điều thứ nhất liên quan tới lòng đạo đức của thanh thiếu niên và nói chính xác hơn là sự hiệp lễ thường xuyên.

Cách thức ngài nghĩ về lòng nhân lành của Chúa đối kháng hoàn toàn với tàn dư của thuyết giansenist nghiêm khắc còn vung vãi đâu đó ở Piedmonte, gây tổn hại cho các linh hồn đặc biệt trong việc thực hành các bí tích. Don Bosco can trường để tẩy xoá tàn dư này bằng cách cổ võ các thanh thiếu niên tham dự một cách thân tình bàn tiệc thánh thể. Vững chãi trong giáo huấn chân chính của Giáo hội, và tiến xa hơn nữa theo giáo huấn của thánh Phanxicô Salê, ngài khuyến khích rước lễ không chỉ hằng tuần mà là hằng ngày. Điều mà chưa từng ai đã từng thấy.

Bởi thế có thể hiểu được những lời nhận xét phản đối thậm chí có khi là khiển trách thậm tệ. Nhiều người khi nhìn thấy từng hàng thanh thiếu niên của Nguyện xá lên rước lễ mỗi ngày, họ thấy mình chưng hửng. Nhưng ngài để mặc họ nói gì thì nói, bởi vì gương sáng của ngài lôi kéo và việc thực hành là đương nhiên, cho tới khi Đức thánh cha Pio X giải quyết một lần dứt khoát vấn đề, ra một sắc lệnh nổi tiếng, đánh dấu sự chiến thắng của nền tu đức bí tích của thánh Gioan Bosco và ngay cả sử dụng chính lời của ngài nữa.

Một hiệu quả tốt nữa của đức ái vui tươi đó là hình thức ngài ghi khắc trong hệ thống giáo dục dự phòng trong việc giáo dục giới trẻ. Những qui tắc chừng mực nhưng khôn ngoan và hiệu qủa mà ngài đặt ra muốn thánh hiến vai trò của sự  thân tình trong một công cuộc cực kỳ tế nhị để mưu ích cho lứa tuổi mỏng dòn này. Ngay từ nhỏ ngài đã cảm thấy được thúc đẩy để làm tông đồ giữa các bạn cùng tuổi cũng như những bạn lớn tuổi trong vùng, hiểu được giá trị của tài khéo khi chơi để đạt đến mục tiêu tông đồ; đến tuổi thiếu niên ngài thực hiện việc tông đồ giữa các bạn học, tổ chức một hiệp hội có tên là Hội vui; khi là môt linh mục trẻ, lúc bắt đầu sứ mạng ngài thu hút đám trẻ nghịch ngợm của thành phố Torino bằng cách biến mình trở nên nhỏ bé giữa những trẻ nhỏ, và trong thời gian đầu của Nguyện xá ngài sáng kiến ra những phương tiện lạ lùng để làm cho nhà ngài ắp đầy niềm vui. Khi ngài phải cầm bút và ghi thành lời những qui tắc chính xác phải theo để giáo dục thanh thiếu niên như ý ngài muốn, ngài làm cho đức ái vui tươi trở thành một điều kiện không thể thiếu (sine qua non) của tất cả phương pháp giáo dục của ngài, phương pháp được tóm gọn lại trong lời tuyệt đẹp phụng sự Chúa trong niềm vui.

Tôi đã gọi ngài là vị tông đồ của một đức ái không lệ thuộc, nghĩa là vượt trên các xét đoán và thành kiến. Không lệ thuộc vào xét đoán của những người mà nhờ có đóng góp của họ ngài thực thi bác ái, và của những kẻ khác vốn tấn công ngài bằng những lời phê bình hoặc ngược lại vì họ tán tụng ngài. Không lệ thuộc vào thành kiến của những kẻ vì hiểu lầm mà tìm cách cản trở lòng nhiệt thành của ngài, hoặc của những kẻ xấu tìm cách phá những cơ sở của ngài, và thậm chí muốn tiêu hủy chúng.

Trước hết, đức ái nung nấu trong lòng ngài, khiến ngài trở thành thừa tác của Chúa đối với bất cứ hạng người nào. Khi tiếp xúc với bất cứ ai, vừa khi biết được tâm tình tôn giáo của họ, ngài liền tìm cách mời họ suy nghĩ về linh hồn. Đức ái thúc đẩy ngài, tạo cho ngài một sự thành tâm tông đồ. Sự thành tâm này đi cùng với sự đơn giản trong sáng của ngài tạo nên một ấn tượng tích cực. Trong những trường hợp này ngài không biết đâu là sự nể nang nhân loại mà nhiều khi làm cho các linh mục phải dè giữ đến độ không dám đụng tới một số vấn đề.

Ý thức phải làm sao cho việc phục vụ linh mục được tốt hơn như được mong đợi, khiến ngài không bận tâm tạo ra ấn tượng ban đầu bằng những lời nói trước mặt người khác. Thường đó là những nhà khoa học quí phái, những chuyên gia, những nhà chính trị, những nhân vật có tiếng tăm, nổi danh vì lập trường chống Giáo hội, những người này dễ dàng xỏ mũi ngài như chơi. Nhưng Don Bosco không hề lo lắng, ngài làm cho sự tự do của mình thêm dễ chịu bởi sự lịch thiệp trong cung cách đối xử, luôn kính trọng và tỏ tình cảm và tuỳ theo hoàn cảnh còn có những câu hóm hỉnh bất ngờ; dù những câu như thế cũng có khi có kết qủa xấu.

Còn biết bao giai thoại thú vị người ta có thể kể về điểm này!

Sự khinh thường và rồi sự ca tụng nở rộ mọi lúc và mọi nơi; hàng trăm lần báo chí đề cập đến ngài hoặc ủng hộ hoặc chống đối. Đức bác ái của ngài không bị lung lạc bởi những sự khinh dể và trong sự ca tụng ngài nhìn thấy cái gì đó xa hơn, tức là giá trị truyền bá của báo chí cho công cuộc của ngài. Vậy thì đâu là tâm tư sâu thẳm của ngài, điều đó ngài cho thấy trong một khoản trong Qui luật dành cho các nhà Salêdiêng, vốn được duy trì trong lần xuất bản thứ nhất năm 1877 và các lần kế tiếp.

Trong khoản này Don Bosco nói với các thanh thiếu rằng chúng hãy học để đón nhận một cách dửng dưng các lời khinh chê và khen ngợi.112 Đòi hỏi như thế không phải là ít đối với lứa tuổi này! Về phần ngài, khi ngài nói với chúng về những lời khen chê mà người ta nói về ngài, ngài thường bảo rằng những người khen ngài, họ muốn nói về cái mà ngài phải là; và những người chê, họ nói về cái mà ngài là. Rất thường các kẻ chỉ trích ngài trách cứ ngài về hai điều, ngài để cho quảng cáo quá nhiều về con người và công cuộc của ngài và đồng thời vì ngài qúa gần gũi với đám người chống lại Giáo hội.

Nhưng trong sự quảng cáo, ngài chỉ nhìn đó như một phương tiện khiến cho các cơ sở của ngài được biết và được ủng hộ, trong đó ngài tỏ ra hiểu thời cuộc: dần dần sự việc trở nên phổ biến khiến cho ngay cả những người kiểm duyệt ngài cũng phải dựa vào quảng cáo nếu họ muốn thành công trong một số công việc tốt của họ.

Về lời tố giác thứ hai, không khó biện hộ: thực vậy ngài không thấy gì xấu cả khi gần gũi mọi người để làm điều lành cho tất cả, tiếp đón chính bính, kính trọng họ và trả cho Caesar điều thuộc về Caesar, để cho họ không phủ nhận những gì thuộc về Thiên Chúa. Ngoài ra, ngài không nịnh hót bất cứ ai: dù là các nghị viên hoặc bộ trưởng; ngài cư xử lễ độ, nhưng thẳng thắn và như một linh mục đối với từng người, ngài không bỏ qua thói quen nói về chân lý mà có lẽ họ đã không được nghe từ người khác.

Đức ái của ngài cũng không bị lệ thuộc vào các thành kiến của người khác, ngài khôn ngoan tránh mọi hành động qúa khích, vốn có thể gây ngãng trở cho hành động của Chúa quan phòng. Các thành kiến bất lợi cho Don Bosco có ba loại sau đây: Giáo quyền, tôn giáo và chính trị.

Công cuộc của Don Bosco xuất hiện trước xã hội với những yếu tố mới mẻ, xem ra không phù hợp với những truyền thống đáng kính. Ngày nay sự mới mẻ do ngài đem tới đã hội nhập vào trong đời sống Giáo hội; nhưng những người tiên phong không dễ được cảm thông bởi những người thuộc thế hệ qúa khứ, từ đó nảy sinh sự e dè, sự nghi kỵ và rồi sự chống đối. Những khó khăn đôi khi nặng nề và kéo dài đến độ làm nản lòng người không ý thức về sứ mệnh cao cả của mình. Tuy nhiên Don Bosco không bối rối cũng không đổi thay đường hướng: ngài kiên nhẫn, khiêm nhường, ngài nói, viết, để rồi sau cùng tới ngày cuối đời ngài nghiệm thấy được niềm an ủi thấy mình được hiểu, được phê chuẩn và được chúc phúc.

Về loại thành kiến thứ hai, tôi muốn nói tới những ý tưởng sai của thời đại về bậc sống tu sĩ. Chính quyền dẹp bỏ các đan viện và giải tán các người ở trong đó. Sách báo, kịch tuồng bôi nhọ và giễu cợt họ. Các gia đình Kitô hữu cũng bị ảnh hưởng lây, họ không còn nhìn các tu sĩ với thiện cảm nữa. Các giáo sĩ triều cũng không tôn trọng họ. Tu sĩ có nghĩa là thầy tu (frate), thầy tu đồng nghĩa với người keo kiệt và lười biếng. Các thanh thiếu niên cười nhạo đằng sau bóng áo dòng dù rằng hiếm khi họ xuất hiện. Thế mà Don Bosco lại có ý tưởng lập một dòng tu mới. Hiển nhiên dòng của ngài khác với các dòng tu khác, thế nhưng các thanh thiếu niên của Nguyện xá không muốn nghe danh từ này, chúng muốn trả lời với ngài: làm linh mục, tốt, nhưng làm thầy tu, không. Phải tưởng tượng ngài đã phải gần gũi với chúng và chuẩn bị chúng như thế nào, phải thận trọng để không đụng đến thành kiến chung để khỏi biến mọi sự thành mây khói! Lòng tốt, sự kiên nhẫn và sự khôn ngoan sau cùng đã giúp ngài chiến thắng. Chỉ có một đức ái biết nhìn xa trông rộng mới có thể giúp kiên trì trong công việc cam go.

Cuối cùng là nền chính trị thiên kiến. Tu hội Salêdiêng hình thành trong thời chiến tranh dành độc lập và thống nhất nước Ý. Ý tưởng về cải cách, trào lưu tự do, phôi thai trong thời Đức Gregorio XVI, bùng nổ vào thời Đức Pio IX. Những cuộc biểu tình hỗn loạn của dân chúng gây nên sự biến động ngay cả trong hàng ngũ giáo sĩ triều và dòng, do chịu áp đặt kỷ luật hay do bị lôi kéo bởi sách báo cấp tiến hoặc bị lừa gạt vì ngây thơ, họ chạy theo trào lưu. Nếu qủa là một phong trào thuần túy yêu nước, chẳng có gì xấu; thế nhưng có những kẻ lợi dụng nước đục thả câu, tìm kiếm tư lợi, và đó chính là các giáo phái. Qúa nhiều người tốt hoặc những người thiển cận không thấy hoặc những kẻ bị sai lầm lấy đom đóm làm đèn.

Người ta cũng tìm cách để lôi kéo Don Bosco vào trào lưu chính trị; nhưng tâm tư tận căn linh mục của ngài đã chỉ cho ngài đường hướng xử sự đúng đắn: không chính trị vì nó gây chia rẽ, luôn luôn đức ái vì nó liên kết. Do điều này ngài phải đau khổ rất nhiều lúc đó và cả sau này. Tuy nhiên ngài không đầu hàng. Thận trọng, bình tĩnh, đáng kính nể, ngài lưu tâm tụ họp các trẻ bị bỏ rơi để làm cho chúng trở nên những công dân tốt và Kitô hữu tốt, và đồng thời ngài cũng nghiên cứu cách để giữ gìn đám trẻ ngày càng tăng khỏi ảnh hưởng xấu chung trong xã hội, mà ý nhắm không nói ra của ngài là đào tạo chúng nên nền móng của công trình ngài đang xây dựng.

Kinh nghiệm về thời cuộc biến động đó trở nên thầy dạy cho ngài trong thời gian tiếp sau đó trong việc củng cố Tu hội Salêdiêng. Đang khi vẫn đặt đức ái lên hàng đầu, trước mặt nhà nước mới ngài có ý định cho họ biết rằng người ta có thể trả cho Caesar điều thuộc về Caesar mà không phải nhượng bộ điều gì hay nhượng bộ ai cả, cũng chẳng lấy đi của Thiên Chúa điều thuộc về ngài, và điều này đã được Đức Pio IX khen ngợi. Ngài coi đây là vấn đề lớn lao nhất đối với các người công giáo thời đó.

Trong thực tế ngài đã gặp phải rất nhiều khó khăn, và ngài luôn tìm cách giải quyết chúng theo đường lối phúc âm. Không may nghệ thuật của kẻ thù của Giáo hội rất tinh xảo đồng thời phương tiện của họ thì dồi dào; đang khi Don Bosco luôn đặt mình trong sự hợp pháp và tìm cách theo đức ái để có được sự giúp đỡ của người đang có quyền lực. Dù phải hy sinh về đủ mọi phương diện, ngài đã xây dựng công trình của ngài trên nền tảng vững chắc, vững chắc tới độ rằng, nếu có người khác muốn tái lập lại các cơ sở cũ, họ sẽ không ngần ngại theo gương hành xử của ngài.

Đức thánh cha, người phong thánh cho Don Bosco, trong bài giảng dịp trọng đại đó ám chỉ rằng giữa bao đối kháng mà vị thánh đã trải qua, chính sự trợ lực của Thiên Chúa làm ngài mạnh sức: “Hiến toàn thân cho vinh danh Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, ngài không bị khựng lại đứng trước sự nghi ngờ của người khác, nhưng với sự mạnh bạo trong tư tưởng và hiện đại trong phương thức ngài bắt tay vào thực hiện những dự định rất mới mẻ, những điều xem ra có vẻ táo bạo nhưng do được ơn soi sáng, ngài biết rằng phù hợp với ý Thiên Chúa”. Và còn hơn nữa: “Đứng trước các khó khăn đủ mọi loại, đứng trước sự cười nhạo và chế diễu của nhiều người, ngài thường ngước mắt lên trời và kêu lên: - Anh em thân mến của tôi, đây là việc của Thiên Chúa, đây là ý của Chúa: bởi thế Chúa buộc lòng phải cung cấp những trợ giúp cần thiết.- Các sự xảy ra chúng tỏ sự thật của lời ngài nói, đến độ những sự cười nhạo biến đổi thành sự khen ngợi khắp hoàn vũ”.

Như thế ứng nghiệm cho ngài điều mà thánh tông đồ đức ái viết: Đức ái hoàn hảo thì đẩy xa sự sợ hãi.113 Tình yêu quá lớn dành cho Thiên Chúa và đồng loại đã làm cho ngài vững mạnh trong mọi sự và nhờ đó thực hiện được sứ mệnh.

Tới đây ý nghĩ của chúng ta tự nhiên quay về với thánh lễ do Giáo hội phê chuẩn kính thánh Gioan Bosco. Thánh lễ mở đầu với những lời mà Kinh thánh nói về Salomon và Đức thánh cha Pio XI sử dụng nhiều lần trong diễn từ về Don Bosco: Cùng với sự khôn ngoan và thận trọng tuyệt vời, Chúa đã ban cho ngài một trái tim rộng vô bờ như cát trên bờ biển. Và như chính thánh lễ gợi ý, ngài phải trở nên cha của nhiều dân tộc.114


Chú thích

105 IIa IIae, c. CLXI, a 2 ad 2: Est quaedam dispositio ad liberum accessum hominis in spiritualia et divina dona.

106 Diễn từ ngày 3 tháng mười hai năm 1933.

107 Mem. Biogr., vol. IV, p. 748.

108 Mem. Biogr., vol. XI, p. 409.

109 Ivi, vol. XVII, p. 273.

110 Hiến Luật của Tu hội Salêdiêng, khoản 191, §4.

111 Phil 4, 4.

112 C. X, về sự Khiêm tốn, khoản 6.

113 I Gio 4, 18.

114 III Vua 4, 29; Roma IV, 18.

Chương XIV. Con người của đức tinChương XVI. Ơn soi sáng