Chương XIV. Con người của đức tin

Mỗi người là Kitô hữu nhờ vào đức tin, mà phép rửa là cửa vào. Chính đức tin là nền móng của đời sống siêu nhiên và là dây nối kết linh hồn với Thiên Chúa, đức tin ấy được hoà nhập với đức cậy và đức ái. Nhưng là tín hữu theo danh hiệu và con người tin thì khác nhau. Người tín hữu thì hơn kém thực hành đức tin của mình, đang khi con người tin thì sống bởi đức tin và sống đức tin như một dấu chỉ của sự vươn tới kết hiệp sâu xa và liên lỉ với Thiên Chúa. Đây chính là trường hợp của Don Bosco.

Thật vậy, hầu như tất cả những gì chúng ta thấy cho đến bây giờ và sẽ thấy trong phần còn lại, đó chính là đức tin sống: ý nghĩ, tình cảm, công việc, sự can đảm, sự đau khổ, sự hy sinh, thực hành đạo đức, tinh thần cầu nguyện đều là những tia lửa của đức tin bộc phát từ bên trong. Có lẽ sẽ là lập lại điều đã nói, hay phải từ bỏ ý định viết một chương về đức tin. Tuy nhiên sự rộng lớn của đề tài vẫn có những điều chúng ta phải cô đọng lại. Một cuộc đời liên lỉ và mạnh mẽ được sinh động bởi hơi thở của đức tin không cống hiến chất liệu để suy tư về những nhân đức thần học đó sao? Không thiếu những đặc điểm cần phải làm nổi bật.

Các chứng nhân trong án phong thánh, những người sống nhiều năm gần gũi với Don Bosco, đều ca ngợi đức tin của ngài. Sự trình bày của họ về Don Bosco và các chân lý đức tin có thể được cô đọng lại trong công thức này: khao khát trong tìm hiểu, vững vàng trong tin tưởng, hăng hái trong tuyên xưng, nhiệt thành trong truyền bá, mạnh mẽ trong bảo vệ. Điều đáng chú tâm đặc biệt là chứng từ của Don Rua khi ngài mở đầu phần trình bày của mình: “Ngài là con người của đức tin. Được dạy dỗ từ nhỏ trong các chân lý chính yếu của đạo thánh từ người mẹ tốt lành, ngài trở thành người khao khát”.

Diễn tả tượng hình này không chỉ đúng mà còn đẹp nữa; người mẹ không chỉ nuôi dưỡng đức tin con mình thời trẻ thơ nhưng cả trong những thời điểm quan trọng sau đó nữa. Bà đã đổ vào lòng con của bà đức tin mà vốn tràn đầy trong chính lòng bà. Đó là vì sao mà Don Bosco luôn giữ trong ký ức của mình gần như một sự tôn kính đặc biệt đối với bà mẹ nhân đức này. Cho tới gần những ngày cuối đời ngài nói về mẹ mình với một sự ngọt ngào và xúc động. Lời của ngài rung lên một tâm tình biết ơn sống động đối với Thiên Chúa vì đã cho ngài một người mẹ đạo đức; ngài luôn coi đó như một ơn huệ lớn lao nhất đã nhận được.

Tuy nhiên cần phải thêm rằng, nếu mẹ ngài đã can thiệp trong những dịp quan trọng nhất trong cuộc đời ngài, thì những can thiệp này được dự liệu do hoạt động ân sủng thần linh. An sủng này qua đức tin đã làm nảy sinh những hành động và những dự định lớn lao. Mẹ Magarita đã chuẩn bị cho cậu Gioan nhỏ của mình rước lễ lần đầu, dẫn cậu tới toà giải tội, nhưng cậu chưa mãn nguyện, cậu muốn trở lại xưng tội hai lần nữa, ý nghĩ của cậu về bi tích giải tội đã ở mức cao do đức tin thúc đẩy đối với bí tích cao trọng này.96

Về vấn đề ơn gọi mẹ ngài tuyên bố rõ ràng: “Trong những việc này, mẹ không can thiệp, bởi vì Thiên Chúa mới là tất cả. Đừng nghĩ gì về mẹ cả. Mẹ là người nghèo; nhưng nếu con trở thành linh mục và trở nên giàu có, mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con dù chỉ một lần”. Nhưng chính người con lúc đó đã xác tín là trong vấn đề ơn gọi không được nghe theo tiếng nói của xác thịt và máu huyết. Điều mà đã làm ngài suy nghĩ từ lâu, đó là tìm biết ý Chúa và trung thành theo tiếng Chúa kêu gọi. Thật vậy, trước khi nói với mẹ, ngài đã chăm chú làm những gì có thể để lấy quyết định.

Khi đã vào chủng viện rồi, ngài có một suy nghĩ cao cả về chức linh mục, rằng để chuẩn bị xứng đáng, ngài theo đuổi đời sống hoàn thiện không chỉ thực hành các lời khuyên phúc âm, nhưng còn tự thánh hiến bằng lời khấn trọn.97 Khi được thụ  phong linh mục, mẹ ngài ban cho ngài một diễn từ thật sâu sắc: “Con đã là linh mục, con dâng thánh lễ; từ bây giờ con gần Chúa Giêsu Kitô hơn. Con hãy nhớ, bắt đầu dâng thánh lễ là bắt đầu chịu đau khổ. Từ nay trở đi con hãy suy nghĩ đến phần rỗi các linh hồn mà thôi và đừng lo lắng gì cho mẹ”. Cả về điều này người con cũng đã có những quyết định, giữa nhiều điều khác “chịu đau khổ, làm việc, và luôn khiêm nhường trong mọi sự khi liên quan tới phần rỗi các linh hồn”. Tinh thần của ngài chuyển động trong bầu khí siêu nhiên tràn đầy đức tin.

Tới một ngày ngài phải chọn đâu là con đường phải theo để cứu rỗi các linh hồn. Ngài chẳng có một bận tâm nào khác ngoài điều này. Đức tin dạy ngài rằng ý Chúa được thể hiện qua các bề trên, nên ngài không muốn đặt chút nào ý riêng của mình. Bề trên của ngài lúc đó là chân phước Cafasso. Vị này một ngày kia ra lệnh cho ngài đi tới coi sóc một nhà dưỡng bệnh cho các thiếu nữ do bà bá tước Barolo xây dựng và điều khiển có mục tiêu giáo dục. Còn gì trái ngược với ao ước của ngài hơn nữa? Ao ước cháy bỏng của ngài lại không phải là chăm lo cho các trẻ nam sao?

Ngài viết về bốn tháng đầu tiên đời linh mục trải qua tại nhà cha xứ của mình tại Castelnuovo: “Niềm vui của tôi là dạy giáo lý cho trẻ, ở với chúng, nói với chúng”. Chúng luôn bao quanh ngài. Bây giờ phải bỏ tất cả sao? Ngài không tìm bàn hỏi theo sự khôn ngoan nhân loại, nhưng duy nhất theo đức tin và đức tin đã tán dương ngài vì ngài đã vâng lời. Ngài vâng lời không một câu thắc mắc. Ngài không thể giả thiết trong lúc đó, rằng một giải pháp như thế là không cân nhắc và như thế là đối kháng với kế hoạch mà Chúa quan phòng đã chỉ cho ngài.

Lần kia ngài viết: “Đức tin là cái làm được mọi sự”.98 Với sự xác tín này trong tâm trí, ngài không cho rằng mình đã có đức tin đủ. Một lần ngài xin các thanh thiếu niên cầu nguyện cho mình để có một “đức tin sống động, đức tin chuyển núi dời non”.99 Hơn nữa thỉnh thoảng giữa lúc tiến hành các công việc và ngay cả về cuối đời, ngài xưng thú rằng mình thiếu đức tin, ngài kêu lên với nước mắt: “Chúa đã có thể làm được bao nhiêu điều nếu Don Bosco đã có nhiều đức tin hơn”.

Đúng là nếu không có một đức tin lớn lao ngài đã không thể làm được biết bao điều hữu ích. Về đề tài này có lẽ chúng ta phải viết dài hơn! Tuy nhiên chúng ta tạm hài lòng để chú tâm trên vài điểm có tính bao quát. Chúng ta thêm vào một số sự việc mà đã được bàn trong chương bảy. Vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn là hai diễn tả thường gặp thấy trong văn chương Salêdiêng. Lối sử dụng này chiếm lĩnh vì đã được Don Bosco cũng như người kế vị ngài, Don Rua, nhiều lần lập đi lập lại. Vị thánh của chúng ta trong khi nói với các Salêdiêng, với các cộng tác viên, trong khi viết, trong khi trả lời thư từ rất thường xuyên sử dụng nó. Ở trên đôi cánh của đức tin, ngài không tìm kiếm điều gì khác hơn trong cuộc sống.

Một bài học đáng gía đã khiến ngài khỏi tìm kiếm bản thân và những mục tiêu trần gian. Khi ngài đang đi tới một vùng quê thuộc vùng Asti để giảng về thánh Benigno. Ngài đã chuẩn bị một bài giảng với nhiều tư tưởng hay để tôn vinh vị thánh, nhưng cũng có phần nào đó cho mình nữa. Ngài đi tới đó bằng ngựa. Khoảng nửa đường, con ngựa bị hoảng sợ nên phóng như điên vào giữa những cánh đồng, cho tới lúc quăng ngài xuống trên một đống đá vụn. Ngài được khiêng về một ngôi nhà gần đó đang khi ngất xỉu, sau đó ngài tỉnh lại nhưng phải băng bó bàn tay. Ngài viết trong Hồi sử rằng: “Từ sau lần cảnh báo đó, tôi đã có quyết định vững vàng trong tương lai sẽ chuẩn bị các diễn từ của mình chỉ vì vinh danh Chúa hơn, chứ không để tỏ ra mình học thức nữa”. Vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn, ngài đã có trong tâm hồn rồi, nhưng từ ngày đó ngài đã hoàn toàn phó mặc bản thân mình không chút giữ lại gì cho mình, chẳng còn điều gì khác cao qúi và chính đáng hơn cho một thừa tác viên của Chúa.

Sự phó thác trong tay Chúa này không loại trừ sự cố gắng cá nhân. Phương châm của ngài là sự quan phòng muốn chúng ta nỗ lực cộng tác, bởi đó bắt đầu các công việc của mình, ngài đã thấy trước mình sẽ phải làm gì. Ngài thường nói: “Đừng đợi sự giúp đỡ của Chúa quan phòng trong khi lười biếng. Chúa sẽ đến giúp khi nhìn thấy chúng ta nỗ lực vì yêu mến Ngài”.

Đối với những việc đã thực hiện, đức tin giúp gì cho ngài? Về vấn đề này chúng ta có một bài học thật ý nghĩa mà ngài cho một thầy sư huynh có nhiệm vụ giúp ngài khi ngài lâm bệnh nặng vào năm 1872. Bài học thực ra không phải cho thầy hoặc ít là không chỉ cho mình thầy thôi. Khi đã bắt đầu bình phục, sự phục hồi sức khỏe khiến ngài nhìn có vẻ mạnh mẽ hơn bình thường, giống như những người đang lành bệnh. Sau khi khôi hài nói về sự thay đổi của sắc da, ngài nói thêm: “Chúng ta hãy xem làn da mới này có mạnh khỏe và giỏi giang hơn làn da cũ để chống chọi lại bão tố không. Tuy nhiên cha tin rằng Thiên Chúa sẽ làm cho nó chai lỳ hơn để thực hiện công cuộc của Ngài, vì vinh danh Ngài hơn. Hãy tin, con à, mọi cơ năng của chúng ta cũng như tài khéo của chúng ta, tất cả mọi công việc, mọi mệt nhọc và khổ nhục của chúng ta, tất cả phải nhằm để vinh danh Chúa mà thôi. Nếu chúng ta vất vả vì vinh dự của chúng ta, thì các suy tư, các thành quả, các sáng kiến, các công cuộc của chúng ta sẽ chẳng còn giá trị nào. Khốn cho ai làm việc mà chờ mong sự khen ngợi của thế gian! Thế gian là một tay trả tiền thuê tồi, luôn trả lại bằng sự vô ơn… Don Bosco là ai chư? Chỉ là con của những nông dân nghèo, nhưng sự thương xót của Chúa đã nâng ngài lên chức linh mục dù ngài chẳng có công trạng gì. Hãy coi xem lòng nhân lành của Chúa lớn lao dường nào! Chúa đã sử dụng một linh mục đơn giản để làm những việc lạ lùng trong thế gian này; Don Bosco đã làm tất cả và sẽ làm nữa vì vinh danh hơn nữa của Thiên Chúa và của Giáo hội Ngài!”.

Đức tin của ngài bộc lộ mạnh nhất khi ngài tìm kiếm phần rỗi các linh hồn. Bất cứ ai đến tìm ngài, tâm trí ngài lập tức nghĩ đến linh hồn của người đó và nghĩ cách thực hiện điều ích lợi cho phần rỗi đời đời của người ấy. Có hai tư tưởng siêu nhiên tạo nên sự hăng say này: một đàng là mối nguy hiểm bị kết án đời đời của người khác và đàng khác nghĩ đến công trình và sự thương khó mà Chúa cứu thế đã chịu để cứu các linh hồn. Ngài run sợ thay cho những kẻ không màng chi vận mệnh của mình sau khi chết và ngài nóng lòng muốn đưa tất cả tới Chúa Giêsu. Don Bosco chứng tỏ một sự can đảm và một sự mạnh mẽ không giới hạn: can đảm để khuất phục mọi sự nể trọng nhân loại, mạnh mẽ chịu đựng mọi bất tiện, hy sinh, khổ nhục để thực hiện mục tiêu bác ái cao qúi. Hiểu được quyền năng tha tội của linh mục, ngài kêu mời hết mọi người tới toà cáo giải thanh tẩy cứu độ.

Bao lâu còn có thể, ngài vòng quanh Torino để tìm kiếm các linh hồn, vào các nơi sinh hoạt công cộng, vào các quán rượu, cafè, tiệm hớt tóc. Với cớ là cần một cái gì trong đó, ngài tìm cách nói chuyện với khách hàng hay người làm việc, tìm cách để thực hiện mục tiêu của mình. Sau này ngài không để mất cơ hội nào để có những tiếp xúc tương tự trong những cuộc họp, những hành trình hay tiếp khách, và ngài không bao giờ phân biệt người này với người khác. Qủa thật, Chúa đã ban cho ngài sự hiệu năng trong lời nói không chỉ hiếm có mà đúng hơn có một không hai; dầu vậy điều này không cất đi cho ngài trong nhiều cảnh ngộ không gây được hứng thú cho giới thượng lưu hoặc đòi ngài phải lấy can đảm để bắt đầu một số câu chuyện nào đó với giới thượng lưu hay những người trí thức và không tín ngưỡng. Nhưng đức tin thông truyền cho ngài sự an tâm và không sợ hãi. Không hổ danh là một kẻ chài lưới các linh hồn.

Ngài thích suy niệm một câu mà ngài thường hay nói cho các giáo sĩ: “Bất cứ ai đến gần một linh mục, phải tìm được một chân lý sinh ích cho linh hồn người ấy”.100 Ơ điểm này tôi xin phép thêm một thông tin có được trong khi tiến hành thủ tục phong thánh cấp tông tòa.101 Đức thánh cha Pio IX đã miễn chuẩn cho Don Bosco không phải đọc kinh thần vụ; tuy nhiên ngài vẫn đọc thường xuyên một số phần. Do điều này ngài hứa với Chúa không làm một hành vi, không nói một lời mà không nhắm tới vinh quang Thiên Chúa. Hiển nhiên những ưu tư để có lương tâm được ổn thỏa đòi ngài phải làm quyết định này.

Về sự mạnh mẽ của ngài trong việc chịu đựng những bất tiện và đau khổ đủ mọi loại khi thực thi tác vụ tha tội, những gì chúng ta đã nói có lẽ cũng đủ. Những người qúi mến ngài, nhìn thấy tuổi tác và sức khỏe của ngài, họ muốn ngài điều độ trong việc ngồi toà giải tội và nghỉ ngơi đôi chút. Ngài trả lời: “Cần phải nói với ma qủy thôi đừng lường gạt những trẻ nhỏ khốn khổ này và đừng kéo biết bao người xuống hỏa ngục nữa, lúc đó cha sẽ thôi bắt mình làm việc nữa”.

Sau khi đã bàn về hai điểm nền tảng này, giờ đây tôi bàn tới ba vấn đề khác vốn giúp chúng ta đo lường được sự lớn lao của đức tin của Don Bosco. Điều thứ nhất liên quan đến cái ngài đã làm và đã chịu để bảo vệ đức tin chống lại sự mưu hại của lạc giáo.

Năm 1851, ban hành luật về tự do tôn giáo và báo chí, các người tin lành phóng ra một loạt truyền bá không đạo đức trên mọi nẻo đường của Piedmonte, ngay cả dựng một đền thờ ở Torino. Người công giáo, vốn quen với thể chế cũ, không được chuẩn bị cho cuộc chiến này. Don Bosco đứng lên như một người lính canh đêm để bảo vệ đức tin. Để gìn giữ những người bất cẩn khỏi cạm bẫy, ngài phát hành truyền đơn, và lập ra một tờ báo định kỳ lấy tên Bạn đường của giới trẻ, ngài viết và làm cho người khác viết các bài để truyền bá với tờ báo Letture Cattoliche, thêm vào trong cuốn Người thanh trẻ biết dự phòng một tiểu luận Những điểm nòng cốt của đức tin. Ngày nay phần thêm này không được in trong tác phẩm, nhưng lúc đó ngài có lý để thêm nó vào.

Lúc đó ngài tiếp nhận vào Nguyện xá nhiều bao nhiêu có thể các trẻ em đã dựt được từ tay người tin lành. Ngài có những cuộc trò chuyện và tranh luận với các trưởng nhóm và các thừa tác viên của các giáo phái, làm họ hứng thú vì sự bình thản và khiến họ bị ấn tượng bởi sự sáng sủa trong cách ngài trình bày. Đức ái không bao giờ vắng bóng trong lời nói của ngài khiến nhiều người yêu chuộng và tử bỏ những sai lầm của mình. Ngài gởi tới nhiều người những trợ giúp tiền bạc, để trong cảnh cùng cực họ không để các nhóm đối nghịch đức tin mua chuộc. Hơn nữa, ngài còn đặt vào trong cáo thị một số những cha xứ và các giáo chủ, vạch trần mặt nạ lạc giáo của họ.

Sự nhiệt thành của ngài không bó gọn ở Torino. Ngài đi giảng các tuần đại phúc ở các vùng đã bị lây nhiễm lạc giáo. Bài giảng năm 1856 của ngài ở Viarigi tạo nên một tiếng vang lớn; nơi đây ngài bị một tên bội giáo quá khích cầm giữ kéo ngài ra đàng sau một đám đông; nhưng Chúa đã gìn giữ ngài. Tuy nhiên không phải hết mọi người ngay cả trong số những người biết suy nghĩ đã hiểu được hành động của Chúa quan phòng và họ đã gây ra cho ngài nhiều nỗi khổ nhục, đang khi các kẻ thù bướng bỉnh thì tìm cách ra tay mưu sát ngài nhiều lần. Nhưng chẳng gì có thể làm cho người lực sĩ của đức tin này nhụt chí. Đặc biệt từ năm 1868 trở đi ngài mở rộng hoạt động tới Canton Ticino, nơi nhóm qúa khích ưu thắng đã làm nhiều nơi không có cha xứ. Tổng cộng không dưới ba mươi vùng ngài đã chăm lo để có những cha xứ giỏi, phải lo các chi phí và hy sinh cũng như đối diện với không ít các chống đối; nhưng ngài tiếp tục không sợ hãi, ngài đáng được các người công giáo mang ơn vì đức bác ái của ngài đã củng cố họ trong đức tin.

Ngài đã phải hy sinh biết bao nhiêu để xây dựng nên nhà thờ thánh Gioan thánh sử tại Torino gần với đền thờ của nhóm Valde nhằm vô hiệu hoá ảnh hưởng tai hại của họ! Và rõ ràng rằng các nhà Salêdiêng tại Spezia, Vallecrosia và tại Firenze đã được Don Bosco mở với mục đích chính là ngăn chặn hoạt động của người tin lành. Tại những nơi này Thiên Chúa cũng đã chúc lành cho lòng nhiệt thành của ngài. Chẳng hạn tại Spezia, năm 1880 người tin lành có năm trăm học sinh trong các trường của họ, năm 1884 chỉ còn vỏn vẹn mười bảy. Còn nhiều sự việc nữa có thể kể ra nhưng giới hạn của cuốn sách này không cho phép.

Một ngày nọ Don Bosco đang chuyện trò trong phòng với các Salêdiêng bỗng nhiên ngài tỏ ra nghiêm nghị, mặt tái đi, run rẩy từ đầu tới chân, đôi mắt bất động. Những người đứng xung quanh thấy vậy sợ hãi, khi đã hồi tỉnh lại ngài nói: “Cha thấy một ngọn lửa vừa tắt. Một em của Nguyện xá Chúa nhật vừa mới đi theo tin lành”. Đó là một dấu chỉ sự nhậy cảm của Don Bosco đứng trước các mối nguy hiểm về đức tin.

Đức tin của Don Bosco làm cho ngài run sợ khi thấy con số thanh thiếu niên ứng sinh linh mục giảm sút. Thời cuộc xoay chuyển bất lợi cho các ơn gọi giáo sĩ; đây chúng ta không nêu ra những nguyên nhân. Nếu như đức tin là nhờ nghe, dân Kitô giáo sẽ như thế nào nếu không được nghe lời Chúa và thiếu giáo dục đạo giáo? Người đầy tớ trung tín của Giáo hội không để mình thất vọng trong việc kêu than. Các viên chức trong chính quyền nhiều lần trách cứ ngài đã tạo ra qúa nhiều linh mục. Ngài không ngại hy sinh để làm tăng số các học viên cho đền thánh Chúa.

Ngài giảng và viết để chăm lo cho có ơn gọi tốt và đã đóng góp nhiều cho Giáo hội. Bởi thế ngài nhắn nhủ các Salêdiêng rằng sự thiếu thốn phương tiện không thể là cớ để từ chối nhận một người trẻ khi em tỏ ra có dấu ơn gọi linh mục. Họ phải chi tất cả những gì họ có và nếu cần phải đi ăn xin: nếu vì điều này mà bị thiếu thốn, đừng lo lắng vì Đức Mẹ sẽ giúp cách nhiệm mầu. Việc một linh mục sẽ đi vào chủng viện, đi truyền giáo hay đi vào dòng tu không quan trọng; vì đó luôn là một qùa tặng quí giá cho Giáo hội của Chúa Kitô.

Bản thân ngài, ngài mở rộng cửa Nguyện xá cho mọi thanh niên tỏ dấu có hướng về đời sống giáo sĩ; ngài cho rằng đã chưa sử dụng được cách tốt nhất các phương tiện mình có để chuẩn bị các điều kiện thích hợp nhằm tiếp nhận nhiều bao nhiêu có thể và ngài đã chi tiêu không tiếc để cho họ có điều kiện học hành, ăn uống, quần áo, học vị, xin miễn chuẩn quân dịch. Hàng trăm học sinh là niềm hy vọng của Giáo hội, đã chuyển từ Nguyện xá sang các chủng viện, dù có người nói rằng Don Bosco chỉ nghĩ kiếm ơn gọi cho mình mà thôi. Trong Hồi sử người ta có thể tìm thấy những dữ kiện cho thấy hoàn toàn ngược lại.

Phải nói gì về những hy sinh to lớn trong một thập niên ngài cung cấp chỗ ăn ở, các phương tiện ăn học và đào luyện tại Nguyện xá cho các tư giáo của giáo phận Torino, các giáo phận vùng chân núi Alpi và Liguri, khi chính quyền ra lệnh đóng cửa nhiều chủng viện? Nhưng không chỉ có thế. Để rút ra từ sỏi đá con cái Abraham, năm 1875 ngài hoạch định và rồi thành lập Công cuộc Mẹ Phù Hộ dành cho các ơn gọi muộn, hội cung cấp một con số khá nhiều linh mục nhiệt thành. Ngài chăm sóc cho họ cho tới khi qua đời.

Năm 1883, trước nhiều Salêdiêng sáng giá, ngài nói một cách mãn nguyện rằng: “Cha hài lòng! Cha đã làm một thống kê tỉ mỉ, và thấy rằng có hơn hai ngàn linh mục đã xuất thân từ các nhà của chúng ta và họ đã đi làm việc trong các giáo phận”. Và ngài dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Phù Hộ vì đã ban cho các phương tiện để ngài thực hiện những điều hữu ích.

Một đặc điểm khác trong tinh thần đức tin của ngài là lòng yêu mến đối với tất cả những gì liên quan tới sự thờ phượng thần linh. Đúng rằng sự thờ phượng là nhân đức tôn giáo, nhưng nó gỉa định đức tin, vì đức tin cho thấy sự thờ phượng thuộc về Thiên Chúa. Tách khỏi sự thờ phượng bên trong, điều mà chúng ta bàn cho tới bây giờ, thì chỉ còn là cái vỏ bên ngoài. Những hành vi thờ phượng của Don Bosco đã được đề cập tới rồi, đây chúng ta chỉ nói tới lòng nhiệt thành đối với những nơi và đối với những nghi thức phượng tự.

Dù nghèo, ngài mạnh dạn chi tiêu để xây nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ và nhà thờ thánh Gioan thánh sử ở Torino và nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu ở Roma. Ngài muốn rằng chúng phải huy hoàng lộng lẫy về nghệ thuật. Vị kiến trúc sư của ngôi nhà thờ thứ hai viết lại: “Qủa là con người độc nhất! Cho tôi biết số tiền sẽ chi, rồi thêm một cách thanh thản và đầy tin tưởng rằng: dầu sao cần phải làm mọi sự cho tốt nhất và nếu con số có lên đến gấp đôi, thì cũng không sao, chúng ta sẽ tìm được cách để đáp ứng”.102

Đặt một tầm quan trọng cho âm nhạc, ngài đặt vào các nhà thờ các đàn organ tốt nhất. Âm nhạc trong cử hành thờ phượng là cần thiết để lôi kéo dân chúng trong những ngày lễ trọng và sự huy hoàng xứng hợp không chỉ là để gây nên sự sốt sắng nơi dân chúng, nhưng là để ghi khắc trong tâm hồn họ ý tưởng phải có sự tôn thờ thích đáng đối với Thiên Chúa.

Về các cử hành, tôi sẽ nhấn mạnh chỉ một điểm đặc sắc. Ngài lập ra và làm nổi bật trong các nhà thờ cái gọi là các thầy nhỏ theo cung cách riêng của ngài. Các Salêdiêng đã phổ biến lập nó ở khắp nơi. Tại Paris ngay cả Huysmans một lần nhìn thấy đã có ấn tượng sâu sắc.103 Các thầy nhỏ của Don Bosco giúp trong các nghi thức thánh một cách chính xác, nghiêm trang, sốt sắng làm các tín hữu sốt sắng và thán phục.

Don Bosco biết cách làm thanh thiếu niên yêu tất cả những gì gọi là phục vụ bàn thánh, trong ngày lễ trọng cũng như trong cử hành phụng vụ hằng ngày. Điều này đóng góp nhiều để tạo Nguyện xá trở nên một môi trường đức tin, phản chiếu đức tin của chính ngài, luôn luôn muốn nhìn thấy Thiên Chúa được phụng sự một cách xứng hợp. Những người từ bên ngoài tới họ để lại chứng từ rằng họ đầy thán phục trước cảnh đông đảo thanh thiếu niên đạo đức và vui tươi như thế. Các gia đình quí phái và quan chức dẫn con cái họ tới, ban đầu là nhà thờ thánh Phanxicô Salê, rồi nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ, bởi vì họ nhận thấy nơi đám con cái dân dã kia những đứa trẻ bình thản và tốt lành.

Nói về đức tin của Don Bosco là nói về một đề tài không thể vơi cạn, nhưng ở đây không thể bàn rộng hơn được. Bởi thế cần phải tóm lại trong một vài lời, theo như đấng kế vị thứ tư của Don Bosco viết cho tất cả các Salêdiêng trong chính ngày ngài được phong hiển thánh:104

“Đức tin, điều vốn là nền móng của mọi sự thánh thiện, chính là ngọn đèn soi bước chân ngài, như lời thánh vịnh gia. Trong ánh sáng của đức tin, tâm trí ngài say sưa chiêm ngắm các chân lý mạc khải và ý chí ngài đi theo hướng làm đẹp lòng Thiên Chúa. Bởi thế, khi nói, khi viết, khi làm, tinh thần của ngài không bao giờ chao đảo nửa vời giữa Thiên Chúa và cái tôi, giữa trời và đất, giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời, giữa bổn phận và ý thích, nhưng tất cả đều hướng về Thiên Chúa, là Cha và là Chủ tuyệt đối của mọi sự, từ nơi đây ngài có được tất cả phương hướng cho mọi vấn đề thuộc dưới đất. Cha có ý nói rằng ngài không bao giờ tìm kiếm chính mình, tìm kiếm sự tiện nghi cho mình, tìm thỏa mãn mình, tìm vinh quang cho mình; nhưng ngài sử dụng thời giờ, năng lực và nỗ lực để phục vụ Chúa tốt bao có thể trong cánh đồng mà sự quan phòng đã trao phó cho ngài”.


Chú thích

96 An phong thánh tại giáo phận. Tóm tt, p. 62 (chứng từ của Don Barberis).

97 Mem. Biogr., vol. II, p. 26.

98 L. c., vol. X, p. 90.

99 Ivi, p. 42.

100 Mem. Biogr., vol. VI, p. 381.

101 Summarium, p. 3362 (chứng nhân Mons. Anfossi)

102 Lá thư của Conte Arborio Mella cho con gái. Bản gốc được giữ ở tại nhà bà bá tước Terzi a Sciolze (Torino).

103 Huysmans, L. c. , p. 1.

104 Mem. Biogr., vol. XIX, p. 282.

Chương XIII. Nhà giáo dụcChương XV. Vị tồng đồ đức ái