Chương XIII. Nhà giáo dục

Một số người tranh luận rằng liệu Don Bosco có phải là một nhà sư phạm lớn không; nhưng không có ai có thể nghi vấn rằng Don Bosco là một nhà giáo dục vĩ đại. Đây chính là điểm chúng ta quan tâm. Tại sao Don Bosco tự hiến cho việc giáo dục giới trẻ? Ngài quan niệm thế nào về giáo dục? Ngài đã thực hiện giáo dục như thế nào và muốn nó được thực hiện thế nào? Chúng ta sẽ trả lời cho ba vấn đề này vẫn theo hướng không ra khỏi luận đề của chúng ta: Don Bosco với Thiên Chúa.

Don Bosco dấn thân vào việc giáo dục giới trẻ với sự nhiệt tình của người nghĩ mình nhận được sứ mệnh đặc biệt từ trên cao. Ngài có lý do để nghĩ như thế. Ai, nếu không phải Thiên Chúa, đã đặt trong tâm hồn cậu bé Bosco cái khuynh hướng bẩm sinh, như một hạt giống và tâm tình sơ khởi của ơn gọi, và làm cho nó sớm trưởng thành ngay khi cậu bắt đầu biết suy nghĩ, khiến cậu tìm kiếm các thiếu niên, không phải để thỏa thích vui chơi với chúng, nhưng để nói lại cho chúng những điều hay đẹp cậu đã nghe từ mẹ mình và để kéo chúng ra khỏi điều xấu, thúc đẩy chúng làm điều tốt? Nhớ lại ý thức sớm sủa của mình, Don Bosco viết lại khi ngài đã cao tuổi: “Tụ tập các trẻ để dạy giáo lý cho chúng là ý tưởng rõ ràng trong trí tôi từ lúc tôi được năm tuổi; nó tạo nơi tôi một ao uớc sống động rằng đó là điều duy nhất tôi phải làm trên trần gian này”. Rồi từ đó, dù chưa hết tuổi thiếu niên, cậu đã bắt đầu có ý tưởng làm linh mục, nhìn tới mục tiêu đời sống giáo sĩ. Người ta nghe cậu tâm sự: “Nếu tôi là linh mục, tôi sẽ gần gũi với các thanh thiếu niên, tôi sẽ gọi chúng đến gần, tôi muốn yêu thương chúng và làm cho chúng yêu mến tôi nữa, sẽ nói cho chúng những lời tốt, những lời khuyên và tôi sẽ hy sinh tất cả cuộc sống mình vì phần rỗi đời đời của chúng”.

Nhưng tiếng gọi nhiệm mầu thực sự và trực tiếp từ trời đến với cậu là vào lúc chín tuổi. Bức màn của tương lai được vén mở trong một giấc mơ. Những giấc mơ của Don Bosco có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ xem xét sau. Bây giờ chúng ta dừng ở giấc mơ đầu tiên, giấc mơ có thể được định nghĩa là giấc mơ ơn gọi. Chúng ta đọc lại nguyên văn như được kể lại cho chúng ta qua ngòi bút của ngài như được kể lại trong “Hồi sử”.

“Trong giấc ngủ, tôi thấy mình đang ở gần nhà trong cái sân cỏ khá rộng nơi có một đám đông thanh thiếu niên đang chơi đùa. Một số cười dỡn, một số đang chơi, một số không ít nói lời phạm thượng. Nghe những lời phạm thượng đó, tôi nhào vào giữa bọn chúng, quát mắng và dùng những cú đấm để làm chúng im đi. Ngay lúc đó một Người đáng kính, trạc tuổi trung niên, dáng vẻ cao sang xuất hiện. Ông mặc một chiếc áo trắng phủ toàn thân, khuôn mặt tỏa sáng khiến tôi không thể nhìn được. Ông gọi tên tôi và ra lệnh cho tôi hãy cầm đầu đám trẻ và nói thêm: - Không phải bằng đánh đập nhưng bằng sự dịu dàng và đức ái con phải chinh phục các bạn của con. Con hãy dạy cho chúng biết sự xấu xa của tội lỗi và sự cao quí của nhân đức.

Bối rối và sợ hãi, tôi nói rằng tôi chỉ là một đứa bé nghèo và thất học, tôi không có khả năng nói về đạo giáo cho đám trẻ ấy. Lúc đó đám trẻ ngừng cãi lộn, hò hét và lộng ngôn, chúng bao quanh Người đang nói. Tôi dường như không biết mình nói gì, tôi hỏi: - Ông là ai mà lại ra lệnh cho tôi làm điều không thể?

- Đúng, vì chuyện ấy không thể, nên con phải làm cho thành có thể với sự vâng lời và bằng kiến thức.

- Làm thế nào và từ đâu tôi có thể đạt được kiến thức?

- Ta sẽ cho con một Bà giáo, dưới sự hướng dẫn của bà, con sẽ trở thành khôn ngoan và không có sự hướng dẫn của bà mọi khoa học sẽ trở thành ngu ngốc.

- Thế nhưng ông là ai mà lại nói như thế?

- Ta là Con của Bà, người mà mẹ của con dậy con chào ba lần mỗi ngày.

- Mẹ tôi nói là nếu không có phép của bà, tôi không được làm bạn với người mà tôi chưa biết. Vì thế hãy cho tôi biết tên của ông?

- Tên của ta, hãy hỏi mẹ của ta. Lúc này, tôi nhìn thấy bên cạnh Ông có một người đàn bà khuôn mặt thật uy nghi với tấm áo choàng lấp lánh, như thể mỗi điểm trên tấm áo choàng có một ngôi sao. Nhận thấy tôi thêm bối rối khi hỏi và trả lời, bà ra hiệu cho tôi lại gần, dịu dàng cầm lấy tay tôi, bà nói: - Hãy nhìn! Nhìn quanh, tôi thấy đám trẻ đã biến đâu hết và chỉ còn lại một bầy thú, nào chó, nào dê, nào mèo, gấu và đủ mọi loại khác nhau – Đây là cánh đồng hoạt động của con. Con hãy trở nên khiêm nhường, mạnh mẽ và cường tráng, và những gì con thấy xảy ra cho những con thú này, con phải làm cho các con cái của ta.

Tôi nhìn quanh và thay vì thấy những con thú dữ thì những con chiên hiền lành, đang tung tăng chạy nhảy kêu be be như để mừng Ông đáng kính và Bà đó.

Tới đây, vẫn còn trong giấc ngủ, tôi bật khóc và xin Bà cắt nghĩa cho tôi vì tôi không hiểu những điều xảy ra có nghĩa gì.

Bà liền đặt tay lên đầu tôi và nói: - Khi tới lúc, con sẽ hiểu. Vừa nói xong điều đó thì một tiếng động làm tôi giật mình thức dậy và mọi sự biến mất.

Tôi bị ấn tượng. Dường như có những bàn tay đã đánh lại tôi khi tôi đánh chúng, khuôn mặt tôi bị đau vì những cú nhận được từ đám trẻ đó; tiếp đến là Ông và Bà lạ mặt đó cũng như những điều mà họ nói làm cho trí óc tôi phải suy nghĩ, và đêm đó tôi không thể ngủ tiếp được nữa”.

Sau khi kể lại giấc mơ này trong gia đình ngày hôm sau, trong ba mươi tư năm sau đó ngài không kể lại giấc mơ này nữa. Tuy nhiên ngài nói rằng ngài không bao giờ có thể quên được nó; còn hơn nữa với thời gian ngài dần nhận ra những điều đã nhìn và nghe thấy trong giấc mơ. Ngày nay chúng ta có thể nhìn ra trong giấc mơ đó lời loan báo về một sứ mệnh, chỉ ra cho ngài đối tượng, phương pháp và kết qủa sau cùng. Chính Đức Pio IX, khi nghe về giấc mơ này, ngài coi đó là nghiêm chỉnh. Về điều này, Don Bosco kết thúc tường thuật như sau: “Tôi luôn giữ yên lặng về mọi sự, còn trong gia đình tôi thì không ai có đó là quan trọng.

Nhưng đến năm 1858 khi tôi tới Roma để bàn thảo với Đức thánh cha về Tu hội Salêdiêng, ngài đã bảo tôi kể lại tỉ mỉ mọi sự ngay cả dù chúng chỉ có vẻ siêu nhiên mà thôi. Tôi đã thuật lại lần đầu tiên giấc mơ lúc chín tuổi. Đức thánh cha ra lệnh cho tôi viết lại theo nghĩa nguyên văn, cách tỉ mỉ và để lại nhằm khích lệ con cái của Tu hội, mà vì mục đích thành lập nó tôi đã thực hiện chuyến đi Roma”.

Cần phải thêm rằng để gây thêm ấn tượng cho ngài, giấc mơ này đã được lập lại hơn sáu lần khác nhau với những yếu tố mới, như một sự khai triển để giúp ngài hiểu hơn. Năm mười sáu tuổi với lời hứa về các phương tiện vật chất cần thiết; năm mười chín tuổi với mệnh lệnh trang trọng về việc chăm lo cho giới trẻ; năm hai mươi mốt tuổi xác định cho ngài loại giới trẻ nào ngài phải dành sự chăm sóc đặc biệt; năm hai mươi hai tuổi chỉ cho biết cánh đồng hoạt động đầu tiên: thành phố Torino. Hai lần sau cùng ngài thấy rõ ràng cảnh của công cuộc Valdocco và hiểu được ngài phải làm thế nào để có những người cộng tác đắc lực; đó chính là lời loan báo về Nguyện xá và về Tu hội Salêdiêng.

Việc canh tân những hiện tượng này làm cho ngài hết dần những bối rối về bản chất sự việc, khiến ngài xác tín rằng có yếu tố siêu nhiên trong đó. Thật vậy, ngày 8 tháng năm năm 1884, khi ngỏ lời với các thành viên của Tu hội, ngài bày tỏ sự mãn nguyện và rồi kết thúc thế này: “Người nào đó có thể sẽ nói rằng: những điều này là để làm vinh quang Don Bosco. Không hề như thế: đối với cha chỉ có một điều kinh khủng là phải tính sổ về cách thức cha sẽ hoàn thành ý Chúa như thế nào. Với kế hoạch mà Chúa đã hoạch định cho chúng ta, cha đã luôn tiến tới và chính đây là mục đích duy nhất mà vì đó cha đã làm việc cho tới bây giờ. Đây chính là động lực mà vì đó giữa những nghịch cảnh, giữa những bách hại, giữa những trở ngại to lớn cha đã không để mình mất tinh thần và Thiên Chúa đã luôn ở cùng chúng ta”. Ký sự của Nguyện xá đã cung cấp cho chúng ta những tin tức trên kết thúc như sau: “Người ta không thể diển tả được cái ấn tượng sâu xa mà ngài để lại cũng như sự hăng hái mà mạc khải đó tạo nên”.

Sự nhớ đến giấc mơ có tính tiên tri đó đánh thức hồi ức của ngài, hơn nữa nó còn chụp lấy ngài vào tháng năm 1887 khi ngài cử hành thánh lễ trong nhà thờ Thánh Tâm. Đầy xúc động, nước mắt tuôn rơi trên khuôn mặt của ngài. Đã trải qua sáu  mươi hai năm kể từ khi lời nói với ngài: - Khi tới lúc, con sẽ hiểu. Lúc này ngài hiểu đây chính là giây phút đã nói: sự xây dựng một đền thờ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong thành phố vĩnh cữu và như thể thánh hiến cái ngày hoàn tất sứ mạng còn mù mờ khi ngài còn thiếu niên. Nhưng con cái ngài, những người chứng kiến sự phát triển công cuộc, còn hiểu hơn nữa, vì họ thấy ngài ban đầu như một chú bé mơ mộng với chỉ có một ý tưởng sơ đẳng và bây giờ một vị thánh đáng kính đang chiêm ngưỡng thực tại rộng lớn.

Người kế vị thứ ba của ngài, Don Rinaldi, thấy tầm quan trọng của sứ điệp thần linh trong dịp kỷ niệm một trăm năm giấc mơ, có lý do để kêu gọi tất cả các Salêdiêng để tâm suy niệm biến cố này và rút ra những bài học.84 Thật vậy, ngày nay khi suy tư về nó, người ta cảm thấy một niềm phấn khởi mới để sống chương trình hành động do Chúa quan phòng trao cho Don Bosco và con cái ngài.

Nếu sứ mệnh đến từ trên cao, thì hiển nhiên mục tiêu cuối cùng của công cuộc giáo dục của Don Bosco không thể chỉ là tạo nên những công dân tốt cho quê hương trần gian, nhưng là những Kitô hữu tốt cho quê hương thiên quốc. Đó là lý do tại sao năm 1868 lên tiếng sau buổi academia mừng lễ bổn mạng ngài, ngài qủa quyết cánh mạnh mẽ rằng: “Mục đích duy nhất của Nguyện xá là cứu rỗi các linh hồn”. Đối với Don Bosco, công dân tốt và Kitô hữu tốt không phải là hai hạn từ bất tương hợp, nhưng có nghĩa là điều này tất yếu được nối kết với điều kia. Don Bosco không bao giờ bỏ qua những gì mà khoa sư phạm lành mạnh và trực giác tâm lý mách bảo để kéo từ đứa trẻ thành một người có tay nghề và có danh dự. Vì thế thật dễ hiểu tại sao đứng trước thẩm quyền nhà nước, ngài thích nhấn mạnh đến khía cạnh dân sự của công cuộc giáo dục ngài thực hiện. Tuy nhiên ngài không bao giờ quan niệm việc giáo dục một đứa trẻ đã chịu phép rửa mà không đồng quy hoạt động sư phạm nhằm phát triển đời sống siêu nhiên. Đây chính là điểm chúng ta quan tâm tìm hiểu: thái độ của Don Bosco trước vấn đề này.

Monsignor đáng kính Cavigioli nói rằng: “Đời sống đức hạnh của con người, sau Chúa Kitô, phải được xoay chuyển trong bầu khí của sự siêu nhiên; việc giáo dục mà nhắm dừng lại ở tầm mức tự nhiên thôi sẽ là một sự hạ thấp mức độ. Người xuống khỏi bình diện ân sủng sẽ lập tức chuốc lấy sai lầm, bởi vì họ không đứng ở bình diện của tự nhiên được, nhưng đầu họ bên dưới cái tự nhiên”.85

Thời bấy giờ có nhu cầu phải có ai đó nêu cao cờ hiệu của nền giáo dục toàn diện của Kitô giáo, nhất là đối với tầng lớp đông đảo hơn trong xã hội. Khi vị thánh của chúng ta đi vào trong lãnh vực này, chủ nghĩa tự nhiên đang chiếm lĩnh ngày càng nhiều nơi giới trẻ trong những trường học mở rộng cho tất cả. Các lý thuyết sư phạm đang gieo rắc học thuyết loại bỏ bất cứ ý tưởng nào về sự nâng lên bình diện cao hơn. Không hiếm những người tốt cũng bị cuốn hút bởi trào lưu, để mình bị các khuynh hướng của thời dại dẫn dắt. Don Bosco không tức giận về những điều tốt mà thời đại mới cống hiến, nhưng lý tưởng của ngài đặt ở một điểm cao hơn nhiều.

Như ngài quan niệm thế nào về giáo dục, ngài cũng làm cho người ta hiểu điều đó ngay từ buổi đầu khi tiếp nhận các thanh thiếu niên đến với ngài: ngài đón nhận chúng như từ tay Thiên Chúa. Ngài nói: “Chúa đã gởi đến cho chúng ta, ngài đang gởi tới và sẽ gởi tới nữa”. Ngài biết rằng thân nhân cha mẹ và các ân nhân đã phó thác chúng cho ngài, để ngài dạy chúng về văn hóa, khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp, và ngài đáp ứng lại nguyện vọng này; nhưng ngài luôn lập lại lời giáo huấn này cho những người cộng tác với mình: “Chúa gởi chúng đến với chúng ta, để chúng ta chăm lo cho linh hồn chúng và chúng tìm được ở đây con đường dẫn tới phần rỗi đời đời. Vì thế mọi cái khác ở đây phải được coi là phương tiện; mục tiêu tối thượng của chúng ta là làm cho chúng trở thành người tốt và cứu rỗi chúng”. Bởi thế trong cuộc gặp gỡ đầu tiên ngài nói với họ về linh hồn; còn hơn nữa ý tưởng của ngài có lẽ làm kinh ngạc nhiều người.

Ngài cho rằng nếu một thanh thiếu niên vào trong trường mà bề trên không tỏ ra tình yêu mến vì phần rỗi của em, nếu bề trên đó sợ phải nói với em cách khôn ngoan về chuyện lương tâm, hoặc nói chuyện về linh hồn dùng những lời nửa chừng, hay nói một cách mơ hồ về việc phải trở nên tốt, phải trở nên đáng kính trọng, về việc vâng lời, học hành, làm việc, thì sẽ không có được những kết qủa lâu dài và bề trên đó sẽ không được yêu mến. Đó là cái đầu tiên trong các sai lầm, khó lòng mà sửa chữa được. Don Bosco thường dạy từ kinh nghiệm của ngài: “Người trẻ thích nghe nói về những quan tâm thiêng liêng hơn người ta nghĩ và từ đó hiểu được ai là người thương yêu hay không thương yêu em”. Không chỉ đối với bề trên, ngài còn nhắn nhủ điều đó vào đầu năm học cho tất cả những người khác trong việc dạy học, hộ trực, sửa lỗi, tưởng thưởng; để làm cho các thanh thiếu niên thấy rằng họ ở đó là vì linh hồn của chúng.

Đối với các giáo viên, ngài muốn họ phải coi trường học như một phương tiện để làm điều tốt. Ngài bảo họ: “Các bạn giống như các cha xứ trong xứ đạo của mình, giống như các nhà truyền giáo trong vùng truyền giáo của mình. Bởi thế thình thoảng các bạn phải đề cập đến các chân lý Kitô giáo, phải nói về bổn phận đối với Thiên Chúa, về các bí tích, về lòng sùng kính đối với Mẹ Maria”. Nói tóm lại, ngài muốn rằng các bài học của họ phải mang tính Kitô giáo và đang khi khuyên nhủ học sinh trở nên Kitô hữu tốt, họ phải tỏ ra là những người chân thành và đáng mến. Ngài nói: “Đó là bí quyết để yêu mến thanh thiếu niên và chiếm được sự hoàn toàn tín nhiệm. Ai cảm thấy xấu hổ phải khuyên nhủ về lòng đạo đức thì không xứng đáng làm thầy dạy; giới trẻ sẽ khinh thường người đó và người đó sẽ không thành công làm được chuyện gì khác hơn là làm hư hỏng các tâm hồn mà Chúa quan phòng đã tín thác cho họ”.86

Mọi bề trên và giáo viên phải thường xuyên chạy tới Thiên Chúa xin sự trợ giúp và phải qui về Thiên Chúa tất cả những gì đã thực hiện được. Khi có ai đó ca thán về lớp học của mình, ngài thường hỏi người đó: “Con có cầu nguyện cho các học sinh của con không?”. Trong cuốn “Những kỷ niệm tín cẩn” cho các giám đốc ngài khuyên từng người rằng: “Trong những vấn đề quan trọng hãy luôn nâng tâm trí lên cùng Chúa trước khi phải tính toán”. Và trong cuốn Nội qui của các nhà, khi kết thúc phần mở đầu tổng quát, ngài tuyên bố rằng đối với tất cả mọi người, kiên nhẫn và chuyên cần cầu nguyện là không thể thiếu được, không có nó mọi qui luật dù tốt cũng vô ích.

Và suy tư của ngài mỗi cảm thấy hài lòng về kết qủa đạt được: “Chúng ta cần khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa, nhìn nhận mọi sự là từ Ngài, khi cầu nguyện và nhất là trong thánh lễ khi Mình Thánh Chúa được nâng cao, hãy phó thác bản thân, mọi lao nhọc, mọi học sinh”. Riêng bản thân Don Bosco, sau khi tổ chức được đều đặn các lớp học, ngài bắt đầu giải thích một cách khôn ngoan bằng nhiều cách thức khác nhau ba điểm nền tảng chương trình của ngài: xa tránh tội lỗi, thường xuyên xưng tội và rước lễ. Đưa Thiên Chúa vào và giữ gìn sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn các thanh thiếu niên là mối quan tâm trước nhất của Don Bosco.

Đề tài này có lẽ sẽ đưa chúng ta đi xa hơn nữa. Cho tới đây chúng ta đã thấy đối với Don Bosco yếu tố tôn giáo cốt yếu như thế nào trong việc giáo dục, còn hơn nữa đó là yếu tố ưu tiên; không có yếu tố tôn giáo, theo ngài, việc giáo dục không chỉ không có hiệu quả mà còn không có ý nghĩa nữa. Trong một bài tựa đề Lời nhắn nhủ thánh do chính ngài in và phân phát năm 1849, người ta đọc thấy: “Chỉ có đạo giáo mới có khả năng khởi sự và hoàn thành công trình giáo dục đích thực”. Khi nói thế ngài không ám chỉ thứ lòng đạo hời hợt, trừu tượng, không thực hành.

Trong cuốn Cuộc đời thiếu niên Francesco Besucco, in năm 1864, không bận tâm các nhà sư phạm sẽ nghĩ gì, ngài nói khá rõ: “Dù cho đối với các hệ thống giáo dục khác nhau người ta muốn nói gì, nhưng tôi không thấy đâu có một nền tảng chắc chắn nào khác nếu không phải là sự thường xuyên xưng tội và rước lễ, và tôi nghĩ rằng mình không nói qúa khi khẳng định rằng, nếu bỏ qua hai yếu tố này, luân lý không có gì bảo đảm”. Don Bosco đã sống xác tín này suốt cả đời ngài.

Năm 1878 ngài tuyên bố một cách chân thành với một viên chức cao cấp trong chính quyền rằng: “Người ta nói rằng Don Bosco đề cao quá về tôn giáo. Đúng thế, tôi cho rằng không có tôn giáo người ta không thể đạt được gì tốt nơi thanh thiếu niên”. Năm 1885, ngài buột miệng than thở về vấn đề này: “Cha đã gìa và đang kiệt sức, cha sẽ chết trong đau đớn vì không được hiểu đầy đủ”.87 Ngài không chỉ rõ ai là người không hiểu ngài, nhưng không khó đoán ra người ấy.

Đức thánh cha Pio XI hiểu ngài rất rõ. Sau khi công bố Don Bosco là “người cổ võ vĩ đại của giáo dục Kitô giáo”, trong bài giảng ngày phong thánh, Đức thánh cha vạch ra đâu là bí quyết khiến hệ thống giáo dục của thánh Gioan Bosco đạt được hoa trái dồi dào và kỳ diệu như thế: “Ngài đã hiện thực hóa các nguyên tắc của Phúc Âm mà Giáo hội công giáo đã luôn luôn khuyên nhủ”.88 Tác giả Caviglioli miêu tả trong ít lời một tổng hợp tuyệt đẹp về lý tưởng sư phạm có một không hai của Don Bosco: “Thiên Chúa, Đấng được mạc khải trong Chúa Giêsu Cứu thế, đang sống trong Giáo hội và tác động với những đặc sủng trên toàn bộ hoạt động giáo dục”.

Nhào nặn lương tâm giới trẻ theo cách thức Kitô giáo đã luôn là ý định của các nhà giáo dục Kitô giáo; Don Bosco thực hiện điều đó trong một thời điểm lịch sử mà điều này tỏ ra cấp bách hơn bao giờ hết. Để tường thuật ngài đã tiến hành như thế nào có lẽ không thể làm việc này trong vài trang, nhưng cần cả một cuốn sách dầy. Tôi xin được thu gọn quanh hai điểm mà thôi: trong lãnh vực giáo dục ngài đã làm những điều kỳ diệu nhờ vào lòng nhân ái linh mục và lòng đạo đức Kitô giáo. Ngài thực hiện cả hai điều này trong những cách thức trước đó chưa hề có.

Về điểm thứ nhất tôi lấy những đoạn trong một bài ngài trình bày năm 1883 trong một cuộc hội nghị của những nhân vật tiếng tăm tại Paris. Ngài nói: “Tâm hồn thanh thiếu niên trong giai đoạn hình thành cần phải được cảm nghiệm những ơn ích tốt lành của sự dịu dàng linh mục”. Sự dịu dàng và lòng thương mến linh mục xuất phát từ lòng tốt linh mục: đó là một lòng tốt sinh ra và nuôi dưỡng bởi tình yêu Thiên Chúa, nó mang tính phụ tử và tín nhiệm vì ích lợi của các linh hồn và nó để lại trong những ai được sống trong ảnh hưởng của tình yêu này từ tuổi nhỏ một kỷ niệm lâu dài và cứu độ. Lòng tốt này được thích ứng một cách khôn ngoan và ngọt ngào với tuổi trẻ. Don Bosco đã chọn đó làm phương pháp giáo dục của mình và Don Rua có lý để gọi ngài là người mà nơi con người này Thiên Chúa nâng tình phụ tử thiêng liêng lên một bậc cao nhất.

Trong Nguyện xá, lòng tốt của Don Bosco tỏa chiếu mọi ngõ ngách. Ngài giống như mặt trời của Nguyện xá, tỏa ánh sáng và sức nóng vào cả những nơi người ta không thấy. Ngài duy trì nơi môi trường sự thanh thản và nơi thanh thiếu niên ước muốn làm hài lòng ngài; ngài xuất hiện nơi nào trong sân chơi là chúng chạy tới hôn tay ngài và để được ở gần ngài, và ngài nói năng, mỉn cười, vui đùa, mắt nhìn chỗ này qua chỗ khác, và ghé tai để nghe những ai làm hiệu muốn nói điều gì đó với ngài cũng như nói nhỏ vào tai những ai ngài muốn khuyên nhủ, khích lệ hay cảnh giác điều gì đó.

Ngài không bao giờ quên ba phương châm mà cõi lòng linh mục của ngài mách bảo và thường nhắc nhở con cái ngài để họ có thể chiếm được cõi lòng và sự tín nhiệm của thanh thiếu niên: hãy yêu thích cái mà chúng thích để rồi chúng yêu thích điều chúng ta thích vì lợi ích của chúng; yêu mến chúng trong cách thức để chúng biết chúng được yêu mến; phải tìm mọi cách để đừng có thiếu niên nào khi ra đi mà cảm thấy bất bình. Người ta mau chóng truyền đạt những phương châm tương tự, còn quá sớm để nhận được sự tán thưởng, thay vào đó để thực hiện chúng phải hy sinh không ít.

Nhưng Don Bosco cũng dạy rằng nhà giáo dục là một người hiến thánh bản thân mình vì lợi ích của học sinh và do đó phải sẵn sàng đối diện với mọi sự khó chịu, mọi mệt nhọc để theo đuổi mục tiêu. Tuy nhiên sức mạnh và sự bền bỉ chỉ có thể có đối với những ai trong công trình lớn lao của việc giáo dục biết tìm kiếm duy nhất vinh quang Thiên Chúa và lợi ích các linh hồn mà thôi. Nhưng rồi cũng tới một thời gian trong đó công việc qúa nhiều, ngài không còn có thể hiện diện giữa các thanh thiếu niên như trước nữa; tuy nhiên ngài đã tạo ra được một bầu khí tốt hơn, giống như cánh tay nối dài của ngài, để nơi đâu ngài không thể làm trực tiếp được nữa, thì cánh tay đó nhân danh ngài và trong cùng một tinh thần của ngài sẽ làm thay.

Điều này là một nhận định chung, giờ đây chúng ta sẽ đi vào vài chi tiết, bỏ qua những vô số những chi tiết khác để tránh cho diễn từ của chúng ta qúa dài.

Lòng tốt linh mục của Don Bosco tỏ ra cho các học sinh ngay từ lúc các em đặt chân vào Nguyện xá. Cung cách phụ tử, sự thanh thản trên khuôn mặt, vẻ dễ mến khi ngài mỉn cười ngay lập tức đánh thức nơi các em sự kính trọng và tín nhiệm. Cũng cần phải trình bày ở đây sự khéo léo và đa dạng về cách thức ngài hỏi han những học sinh mới tới nhờ đó ngài biết được bản chất và tính tình của chúng. Tới một lúc thích hợp sẽ là câu hỏi không bao giờ thiếu: “Con có muốn là bạn của Don Bosco không?”. Câu hỏi này mở đường cho ngài nói với tâm hồn em và dẫn em tới ý nghĩ đi xưng tội.

Đối với người không biết Don Bosco, dường như lạ lùng điều tôi nói ở đây. Thật thế, ngài rất tự nhiên trong việc nói những lời như thế, khiến cho các em nhỏ vừa tới, mở tâm hồn ngay ra cho ngài.

Mỗi buổi tối Don Bosco đều nói mấy lời với các em sau kinh tối, thói quen được gọi là “huấn từ tối”. Đó là vài phút ngắn ngủi thân mật gia đình trong tình cha con, ngài để lại trong tất cả một cảm nghĩ về ngày đã qua. Các thính giả của ngài ghi  lại cho chúng ta khá nhiều về những buổi nói chuyện như thế. Đây tôi trích lại một trong các tường thuật đó.

Ngày 31 tháng mười hai mỗi năm vào giờ huấn từ tối ngài đều cho một hoa thiêng (strenna), nghĩa là một kỷ niệm thiêng liêng cho năm mới. Năm 1859 ngài bắt đầu huấn từ tối như sau: “Các con rất yêu dấu của cha, các con biết cha yêu các con dường nào trong Chúa và đã hiến toàn thân để làm ích cho các con bao có thể. Một chút kiến thức, một chút kinh nghiệm mà cha đạt được, những gì cha là và những gì cha có, lời cầu nguyện, sự lao nhọc, sức khỏe và cả chính mạng sống cha, tất cả cha đều ao ước dùng để phục vụ các con. Trong bất cứ ngày nào và bất cứ điều gì các con cứ tin tưởng nơi cha, nhưng đặc biệt trong chuyện linh hồn. Về phần cha, hoa thiêng cha cho chính là tất cả con người cha; có thể đó là một cái gì gồm nhiều thứ lộn xộn, nhưng khi cha cho chúng con tất cả, nghĩa là cha chẳng giữ chút gì cho mình”. Sau khi cho tư tưởng hoa thiêng, ngài tiếp tục: “Cha muốn rằng chúng ta kết thúc năm cũ với một tình mến hoàn hảo và một niềm vui thánh. Bởi thế cha tha thứ tất cả những gì thiếu sót mà các con có thể đã gây ra, và các con cũng phải tha thứ cho nhau tất cả những xúc phạm nếu chẳng may đã gặp. Cha muốn chúng ta bắt đầu năm 1860 này không một chút lo âu và giận ghét”. Và câu nói đầy tình yêu thương đã kết thúc bài nói chuyện.

Các thanh thiếu niên biết rằng chúng có thể tới với ngài bất cứ lúc nào chúng muốn và biết rằng ngài luôn ân cần tiếp nhận chúng như thế nào! Ngài bảo chúng ngồi trên ghế sofa, còn ngài, ngài ngồi trên cái bàn nhỏ, lắng nghe cách chăm chú như thể nghe người có vấn đề quan trọng cần trao đổi và ngài làm cho chúng mãn nguyện bao có thể. Sau cuộc đàm thoại ngài tiễn chúng ra tới cửa, mở cửa và chào chúng với những lời thân quen của ngài: “Chúng ta mãi là bạn nhé! phải không!”. Không cần nói ai cũng biết rằng các thanh thiếu niên khi đi xuống thang rất thanh thản và rất hài lòng.

Tình cờ gặp ngài trên đường là một niềm vui. Tâm hồn phụ tử của ngài khiến trên môi của ngài luôn có những lời chan chứa tình cảm, được ưa thích như một món qùa; nhất là vì ngài thường một cách đáng yêu nhắc tới cái gì đó mà người gặp ngài quan tâm. Những người đau ốm gặp được nơi ngài sự thăm viếng hỏi han không phải từ xa và vội vã, nhưng ngay tại giường và đầy ân cần. Ngài tìm hiểu bệnh tình, khích lệ tâm hồn và dự liệu những điều cần thiết cách trực tiếp.

Đối với một nhà giáo dục, chắc chắn không thiếu những lúc phải sửa dạy, khiển trách và phạt. Lòng tốt linh mục của Don Bosco khiến ngài từ năm 1846 hình thành nên qui tắc phải tuân thủ khi làm việc này.

Trong thời gian đi vắng khỏi Valdocco, ngài được tin rằng có một linh mục bạn, người giúp ngài trong Nguyện xá, đã hành xử với thanh thiếu niên “bằng sức mạnh”, điều vốn trước đó đã làm nhiều em ghét. Ngày 31 tháng tám ngài viết nhắn nhủ nhà thần học Borel, người thay ngài điều hành: “Xin hãy nêm dầu vào mọi thức ăn tại Nguyện xá”. Cũng một ngôn từ ẩn dụ ngài nói trong những trường hợp tương tự. Thí dụ năm 1866, một ngày nọ ngài nói với Don Rua là người có bổn phận trông coi về kỷ luật: “dường như cha nghe thấy có những tiếng kêu kẽo kẹt, có lẽ cần cho một chút dầu vào mấy cái bản lề”. Hơn nữa, ngài còn khuyên Don Rua trở thành người bán dầu. Không cần nói, về thứ dầu này, Don Bosco xài không chút dè sẻn.

Chúng ta không thể kể hết được những biểu lộ của lòng tốt mà ngài đã dùng để làm vui tươi sống động Nguyện xá, cũng không thể trình bày hết được ngài đã chiếm được sự tín nhiệm từ các học sinh như thế nào. Hãy đọc những trang đầy xúc tích và tuyệt vời về hệ thống dự phòng mà ngài viết từ con tim của một nhà giáo dục mục tử. Trước khi được viết ra, nó đã là bộ luật thực hành của ngài trong khoảng bốn mươi năm: đó là một dữ kiện để thu tích cộng với những suy tư sư phạm, và cũng đó là chính sự khôn ngoan tinh thần đã sinh động ngài trong công cuộc giáo dục đầy lao nhọc và lâu dài, chính tinh thần này đã đem lại cho ngài sự chiến công rực rỡ mà ngay cả các nhà như phạm cũng không tưởng tượng được.

Một trong những chiến công này chính là hồng y Cagliero. Là một thiếu niên đầy đầy sức sống và tài giỏi, cậu không thể nào ở yên được một chỗ. Dù Nguyện xá mang bầu khí của một gia đình hơn là một trường nội trú, cậu bé vùng castelnuovo thích đùa giỡn và là mối khổ tâm cho nhiều bề trên. Cậu đã bị để nghị gởi về gia đình và nếu không có Don Bosco, Cagliero có lẽ đã không trở nên như ngài đã là. Don Bosco biết cách hành xử với cậu bé này, khiến dần dần cậu trở thành một thiếu niên mẫu mực như ai cũng đã thấy.

Một giám mục người Argentina trong các buổi lễ mừng chân phước đã bày tỏ suy tư của ngài, nói rằng Don Bosco như một nhà giáo dục đã có cái cần thiết tinh tuý của một nhà giáo, tức là của người cha chứ không phải một cảnh binh.

Tại London, một người Anh giáo coi sóc một cơ sở nội trú dành cho thanh thiếu niên, sau khi đọc bài viết của Don Bosco về hệ thống giáo dục dự phòng và quan sát việc áp dụng nó tại Nguyện xá Torino cũng như một vài nơi khác tại Italia, ông bị đánh động đến độ học hỏi để bắt chước bao có thể. Ông để một bức hình Don Bosco và ngay cả câu châm ngôn của ngài : Da mihi animas, caetera tolle tại phòng tiếp khách.

Có hai bài báo được in trong năm 1900 và 1903 khi kết thúc bày tỏ ý kiến rằng Chúa đã khơi dậy tại nước Anh những con người sống theo tinh thần của Don Bosco, vì nước Anh qủa thực cần đến. Họ cũng nói đến việc xưng tội và rước lễ hằng ngày, nhưng không dùng chữ thánh lễ, mà gọi là Thánh Thể.89

Ở điểm này chính người tin lành cũng hiểu rằng đối với hệ thống giáo dục của Don Bosco lòng đạo đức Kitô giáo chính là nền móng. Đây chính là đặc điểm mà chúng ta nhấn mạnh và bàn tới trong các chương vừa qua, ở đây tôi giới hạn trong việc trình bày một số nhận định và chứng từ.

Lòng đạo đức trong Nguyện xá được vun trồng, nhưng không được áp đặt, bởi thế nó phát sinh trong một sự tự phát đầy thiện cảm. Nó được nuôi dưỡng bởi việc cầu nguyện chung, bởi thánh lễ hằng ngày, bởi sự thường xuyên xưng tội và rước lễ cũng như bài huấn từ tối; được kích thích bởi các thực hành định kỳ, chẳng hạn như giảng trong ngày lễ, dọn mình chết lành và tĩnh tâm năm; được phong phú bởi các ngày lễ sửa soạn và cử hành sốt sắng; được nâng đỡ bởi bốn hiệp hội đạo đức, mỗi hội có qui luật riêng. Những em có hạnh kiểm tốt nhóm lại trong các hội này trong các cuộc họp nhằm khích lệ lẫn nhau và lôi kéo các bạn khác. Các em này chính là men tốt hoạt động giữa đám đông.

Nhưng ảnh hưởng hơn cả và hơn mọi người chính là Don Bosco với tấm gương, với lời nói và với tác vụ giải tội của ngài, như chúng ta đã trình bày. Lòng đạo đức và nhiệt thành đạo đức của ngài lan sang các người thuộc quyền, và họ mang chính tinh thần này trong các trường. Đức giám mục Vigevano De Gaudenzi nói: “Ai viếng thăm Nguyện xá và những cơ sở khác do Don Bosco thành lập và điều khiển cùng với sự giúp đỡ của các linh mục của ngài, đều cảm thấy một điều mà không dễ thấy nơi các cơ sở khác, tức là bầu khí đạo đức. Tôi nghĩ rằng trong các nhà của Don Bosco người ta ngửi được hương thơm của Chúa Giêsu Kitô”.

Một giám mục khác, đức cha Casale Ferré, cũng bị đánh động bởi lòng đạo đức nhìn thấy trong các nhà của Don Bosco. Vị giám mục danh tiếng này một lần kia nói trước nhiều nhân vật đáng kính rằng cái bí quyết của Don Bosco trong công cuộc giáo dục của ngài chính là thấm nhuần thanh thiếu niên bằng lòng đạo đức. Ngài nói: “Chính cái bầu khí bao quanh chúng, không khí mà chúng hít thở được in dấu của những thực hành đạo đức. Các thanh thiếu niên bị đánh động bởi bầu khí đạo đức, không dám làm và không muốn làm điều gì xấu nữa; chúng không có phương tiện để làm xấu, nếu muốn chúng phải chống lại trào lưu mới trở nên xấu được. Xa rời thực hành đạo đức chúng cảm thấy như cá ra khỏi nước vậy. Đây chính là cái khiến ngài làm chúng trở nên dễ dạy, ngài khiến chúng làm vì xác tín và vì lương tâm, đến độ một sự nổi loạn cũng không thể mường tượng được. Mọi sự đều diễn tiến một cách không thể làm ngược lại”.

Một ngày nọ, người ta nói với Don Bosco về nhận xét này, ngài bảo đó quả là một sự thật tốt đẹp và rồi ngài thêm: “Với việc thực hành đạo đức, người ta tìm cách không trấn áp giới trẻ mà hơn nữa còn làm chúng không chán ngán; làm sao để cho những thực hành này trở thành như khí trời, không bao giờ đè nén và làm ai chán ngán, bởi thế chúng ta mang trên vai trách nhiệm nặng nề: lý do đó là vì không khí bao quanh chúng ta và tràn ngập trong ngoài chúng ta”.90

Có hai điều được nhận thấy trong lòng đạo đức mà Don Bosco ghi khắc: không phải một thứ đạo đức tình cảm cũng như không tách rời khỏi sự vui tươi. Thứ đạo đức tình cảm thì hời hợt và do đó mau qua. Don Bosco đã không biết đến thứ bệnh duy cảm xúc thời nay. Trong quan niệm của ngài, lòng đạo đức chân thật hệ tại ở dự thế của linh hồn tránh xúc phạm đến Thiên Chúa dù rất nhỏ và tìm cách thực hiện mọi bổn phận vì lòng yêu mến Chúa. Các việc thực hành nếu không dẫn tới điều này, đều là hão huyền. Bởi thế trong các dịp tuần tam nhật, tuần chín ngày, các tháng và các ngày lễ, để kính Chúa, Đức Mẹ hay các thánh, ngài khuyên nhủ việc rước lễ và cầu nguyện đặc biệt cũng như đề ra từng ngày bông hoa thiêng một bổn phận, một hành vi nhân đức, việc tốt nào đó chẳng hạn trong học hành, trong công việc, trong sự vâng lời, trong sự tuân giữ qui luật và nhất là trong việc tránh tội nhất là tội bất trinh.

Lòng đạo đức mà Don Bosco vun trồng gợi hứng từ câu đầu của thánh vịnh 122: hạnh phúc này người kính sợ Chúa, những thích và yêu luật Chúa truyền. Cách chung, trong các bài huấn từ buổi tối, xoay đi xoay lại, luôn kết thúc giống như các thánh vịnh với vinh tụng ca Sáng danh, bằng một suy tư về một tư tưởng đạo đức gắn liền với bổn phận nào đó hoặc một chân lý đức tin. Nguyên tắc của ngài là: đức tin là con mắt của lòng đạo đức; không phải ngẫu nhiên mà ngài làm giáo huấn đạo giáo tràn ngập trong Nguyện xá. Như vậy ngài làm cho các thanh thiếu niên quen để hành động vì những động lực siêu nhiên và vì lương tâm. Đây chính là điểm khác biệt giữa một nhà sư phạm và một nhà giáo dục mục tử, người thứ nhất làm công việc của một nhà tâm lý, người thứ hai còn hơn nữa bận tâm nhất là về lương tâm.

Tiếp đến là sự vui tươi. Một văn sĩ nổi tiếng về tu đức nói: “Sự buồn là hơi thở của hỏa ngục; niềm vui là âm vang của sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta”.91 Nơi Don Bosco, do tâm hồn tràn đầy Thiên Chúa, niềm vui trong trái tim ngài tỏa rạng bằng nét mặt, nụ cười, bằng sự luôn lạc quan, và lây lan sang những người sống gần ngài. Phụng sự Chúa trong niềm vui là một điều khoản cốt yếu trong khoa sư phạm của ngài. Khi còn nhỏ tuổi, niềm vui này đã không chiếm lĩnh ngài khi ngài thành lập hiệp hội cho các bạn học để giúp họ sống tốt đó sao? Đaminh Savio, thấm nhuần tinh thần của Don Bosco đã giải thích một cách trung thành tâm tư này khi cậu nói với một bạn mới tới: “Bạn biết rằng ở đây chúng tôi làm cho việc nên thánh hệ tại sống thật vui”.92 Và điều này không chỉ là lời nói. Năm 1857, một thanh niên sau khi vào Nguyện xá một thời gian, đã viết cho một người bạn: “Tôi có cảm tưởng như đây là thiên đàng. Ai cũng vui vẻ, nhưng là sự vui tươi thật sự thiên đàng, nhất là khi Don Bosco có mặt giữa chúng tôi”.93

Cuộc sống của Nguyện xá được dệt bởi lòng đạo đức, học hành và làm việc, nhưng tất cả đều mang hương vị của sự vui tươi thánh thiện. Nhà viết sử nhìn thấy, ông viết: “Người không nhìn thấy sẽ khó lòng mà tưởng tượng được điều đó”.94 Những người từ thời đó còn sống cảm thấy trẻ trung trở lại mỗi khi nhớ lại niềm vui trong mái nhà Don Bosco mà họ đã được hưởng, dù rằng họ đã chẳng có được nhiều tiện nghi trong đó. Người có trong tâm hồn niềm an bình, sẽ luôn mừng lễ như lời Thánh Kinh.95

Don Bosco trong bài viết về Phương pháp dự phòng đã hứa sẽ viết một tác phẩm nhỏ về đề tài này, nhưng ngài đã không thể chu toàn được lời hứa. Thay vào đó, hơn là một cuốn sách mà có lẽ trong đó ngài sẽ trình bày sâu rộng về học thuyết của mình, ngài đã để lại tinh thần cho các con cái. Tinh thần này đã ướng dẫn họ trong việc tông đồ giáo dục tốt hơn cả mọi cuốn sách. Tinh thần này có nguồn mạch duy nhất: sự kết hiệp mật thiết và thường hằng với Thiên Chúa.


Chú thích

84 Công báo Ban Thượng cố vấn, số 26, p. 314 (1925).

85 Thánh Giovanni Bosco và trường học, in Virtú, ecc. pp. 207-8.

86 Memorie Biografiche, vol. X, p. 1018.

87 D. F. Cerruti: Ý tưởng của Don Bosco về giáo dục và về việc dạy học và sứ mệnh hiện thời trong trường học. S. Benigno Canavese, 1886.

88 Cf. Mem. Biogr., vol. XIX, pp. 71 và 274.

89 Trích lá thư của Don Bonavia, salêdiêng gởi cho Don Lemoyne, London ngày 12 tháng sáu năm 1903.

90 D. G. Barberis, Cronachetta (inedita): 27 tháng mười một 1878.

91 Marmion, L. c., p. 166.

92 Vita, c. XVIII.

93 Mem. Biogr., v. V, p.713.

94 Ivi, VI, 401.

95 Prov. 15, 15.

Chương XII. Nhà vănChương XIV. Con người của đức tin