Chương XII. Nhà văn

Không chỉ trong lời nói, trái tim linh mục của Don Bosco còn thao thức trong sự viết lách của ngài. Bắt đầu cầm bút viết cho công chúng từ năm 1844, ngài không bỏ bút xuống nữa. Ngài cống hiến sức lực vào việc in ấn, nhiều tác phẩm nay vẫn còn. Có ba lý do khiến ngài dấn thân vào công việc cầm bút dù bận bịu trăm bề: thói quen từ lâu sử dụng từng phút rảnh; năng lực của một trí khôn và trí nhớ cùng với năng lực ý chí để viết; khả năng hiếm có để thực hiện trong cùng một thời gian nhiều công việc khác nhau một cách tỉ mỉ.

Nhưng ba yếu tố hiện thực này không giải thích được làm sao ngài có thể viết được một khối lượng nhiều như thế, nếu không lưu tâm đến động lực đã khiến ngài làm việc liên lỉ trong suốt khoảng bốn mươi năm liền. Và đó chính là nhiệt tình bừng cháy vì vinh danh Thiên Chúa và lợi ích của các linh hồn. Thế nên chúng ta sẽ hiểu sai nếu chúng ta tin rằng có thể đưa ra phán quyết về các sách viết của Don Bosco bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn văn chương. Người cha thân yêu với nụ cười nhân hậu trên môi, có lẽ sẽ làm chúng ta choáng mắt và sẽ nói với chúng ta những lời không khác lắm với lời thánh Phanxicô Salê: “Về sự hoa mỹ bút pháp, tôi không hề nghĩ tới, vì tôi quan tâm khác hơn”.76 Như thánh Phanxicô nói về chính mình,77 Don Bosco cũng viết “do ý ngay lành, không có mục tiêu nghệ thuật, bởi vì đề tài của ngài không có ý nào khác ngoài diễn tả mình và vì thế để trang điểm chỉ cần sự đơn sơ vốn được Thiên Chúa ưa thích”.

Cái làm gợi hứng cho nhà thơ, cái là khuynh hướng mạnh mẽ của tâm hồn của nhà tư tưởng và, ngay cả nếu muốn nói, cái là sự nhẹ dạ và tự hào đối với tác giả bình dân, đối với Don Bosco chính là tinh thần tông đồ dưới sự thúc đẩy liên lỉ và mạnh mẽ của lòng yêu mến Thiên Chúa. Đây chính cái làm cho ngài muốn lên tiếng công khai, khiến ngài giam mình trong thư viện, khiến ngài cúi mình trên bàn viết. Không có ý nói rằng ngài có khuynh hướng quá độ thích thấy máy in hoạt động, như người ta nói thời chưa có xe hơi; ngài thú nhận máy in gây làm ngài mệt nhưng ngài cảm thấy như một bổn phận gắn liền với tác vụ thánh phải sử dụng khả năng Chúa ban để chiến thắng sách báo xấu bằng sách báo tốt, với những truyền đơn, những cuốn sách lớn nhỏ, những tập san, cung cấp cho giới trẻ và dân chúng những thủ bản đạo đức và sự giáo huấn đạo giáo phù hợp cũng như những in ấn về các chân lý cứu độ. Nói tóm lại, Don Bosco một người viết và in ấn cũng chính là Don Bosco khi giải tội và giảng dạy; trong bất cứ hoạt động nào, như lời thánh tiến sĩ thiên thần diễn tả: “là người của Thiên Chúa, ngài phải luôn yêu thích trong mọi nơi và mọi lúc những gì là thuộc về tinh thần”.78 Vì thế hạn hẹp việc viết lách của ngài vào bình diện văn chương có lẽ không phù hợp.

Trong sự truyền bá đạo giáo lớn lao như thế dường như hiển nhiên cần phải tìm đến những nơi mà tác giả bộc lộ chúng ta biết về mình và về thế giới nội tâm của ngài, đó chính là những nơi chúng ta quan tâm cứu xét.

Một giám mục, khi viết về Don Bosco, trình bày như ngài như con người khi đối thoại biết “chậm rãi khi làm cũng như khi nói năng”.79 Đây là chân dung của người biết cảnh tỉnh về chính mình khi đối thoại, cũng thế một sự tỉnh thức khi viết. Thật vậy người ta không bao giờ tìm thấy tác gỉa trình bày mình trên sàn diễn; ai muốn tìm, cần phải tìm đàng sau hậu trường. Tuy nhiên chính sự yên lặng lại có tính lợi khẩu của nó, tác giả càng yên lặng về chính mình, thì lại càng làm cho mình được đề cao. Người ta có thể nói rằng đời sống thiêng liêng nội tâm của ngài thấm nhập vào trong các sách ngài viết. Như thế chúng ta hiểu được ảnh hưởng của ngòi bút của ngài trên tâm hồn của các độc giả không có thành kiến.

Năm 1908 hồng y Vives bày tỏ ước muốn có một số cuốn sách nhỏ của Don Bosco, trong đó cho thấy lòng đạo đức của ngài.80 Tôi không biết sách nào đã được chọn; nhưng một cách rõ ràng rằng tinh thần của ngài đều có trong mọi cuốn sách.

Một nhà thơ Kitô giáo hiện đại81 khi diễn tả mình như “một công nhân của lời” cho thấy sự khiêm tốn thì kết hợp với ý thức nghệ thuật. Don Bosco, dù không nói ra điều đó, cho chúng ta thấy ngài là một linh mục của lời. Người thợ của lời là người, do sự thích thú cũng như ý muốn của mình, thực hiện công cuộc của mình bằng lời. Chúng ta gọi một người là vị linh mục của lời đối với ai thực thi tác vụ của mình bằng lời.82 Lối nói này xem chừng rất mới mẻ, để chỉ về việc sử dụng lời theo cách thức thánh, nghĩa là nhân danh Thiên Chúa để phục vụ cận nhân, như một bổn phận phát xuất từ ơn gọi. Việc sử dụng lời như thế không để trình bày cái tôi của mình mà để nói lên Thiên Chúa của mình. Trong Giáo hội cách thức thông thường để thực thi tác vụ này là bằng môi miệng với việc giảng thuyết; nhưng cũng được nới rộng để mưu ích cho các linh hồn qua việc viết lách. Trong trường hợp này, người viết đang ẩn cái tôi của mình, phân phát lời cứu độ. Cũng thế Don Bosco để  cho trái tim mình được tự do khỏi những bận tâm hư danh khốn khổ và nhúng ngòi bút của mình vào trong tình yêu thuần khiết của Thiên Chúa.

Nhưng người ta sẽ hiểu được những gì thâm sâu nơi Don Bosco tốt hơn nếu nhìn sự khiêm tốn của ngài như để nhằm phục vụ cho đức ái của ngài. Trong thời buổi hằng ngày có những cuộc tấn công vào lòng đạo của giới trẻ và của dân chúng, Don Bosco, bị thúc đẩy bởi đức ái của Chúa Kitô, để giải độc đối với những sai lầm, ngài nghĩ phải hướng tới một tầng lớp đông đảo độc giả trong giới trẻ và dân chúng. Nhưng giới trẻ và người dân không hiểu nhiều ngôn ngữ của sách vở; và ngài quyết định từ bỏ chính mình. Về điều này lời của Đức thánh cha cho chúng ta hiểu về sự anh hùng của các nhân đức của Don Bosco khi ngài nói rằng do “năng lực của trí óc và trí thông minh xuất chúng của Don Bosco, thực vậy, ngài đã có thể trở thành một học gỉa, một nhà tư tưởng và một văn sĩ”. Ngài đã có thể hướng các khả năng trổi vượt của mình để sáng tác, nhưng ngài đã dùng nó cho hoạt động quảng bá, đó chính là sự từ bỏ đầu tiên của ngài. Ở điểm này người ta phải nói thêm một điểm thứ hai.

Ngay cả trong lãnh vực quảng bá, với năng lực của ngài, ngài đã có thể làm nhiều điều hay, nhưng thay vào đó ngài tự giải phóng mình khỏi ảnh hưởng của văn chương để sử dụng lối văn của dân chúng. Thật vậy, ngài đọc sách của ngài cho các người thất học, hạ thấp xuống tầm mức hiểu biết của họ, và đôi khi đưa cho người gác cổng không có học thức cao đọc bản in thử của ngài, duyệt lại nội dung và luận cứ tại đó xem nó có phù hợp với đối tượng độc giả mà ngài chọn không. Ngày nay chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ tới, giữa một thời buổi đầy xáo động và khó khăn, bao điều kỳ diệu âm thầm của lòng bác ái khiêm nhường cũng như tâm hồn linh mục anh hùng của người đã thực hiện chúng; như tạp chí công giáo hàng đầu ở Italia trong năm 1853 đã giới thiệu ngài với các độc giả của mình: “một giáo sĩ khiêm tốn… có tên là Don Bosco,… với một loạt những cuốn sách nho nhỏ, đầy tính giáo dục, phù hợp với khả năng của người bình dân”.83

Vị “giáo sĩ khiêm tốn” của tạp chí romano đó vài chục năm sau đã trở thành “linh mục thiên thần” trong cuốn sách của một nhà văn Fiorentino. Gọi là thiên thần vì nhiều lý do, nhưng nhất là vì một điều mà chúng ta muốn trình bày nơi đây. Từ các bài viết của ngài người ta thấy một lòng yêu mãnh liệt đối với nhân đức thiên thần, nhân đức mà khoản ba mươi năm của Hiến luật trích lời ngài nói rằng: “Ai không có hy vọng vững chắc rằng, với ơn Chúa, có thể giữ được nhân đức thanh khiết trong lời nói, trong hành động và trong ý nghĩ, thì không nên tuyên khấn trong Tu hội này”.

Mối phúc thứ sáu của Phúc âm, đang khi cho thấy mối liên quan mật thiết giữa việc kết hợp với Thiên Chúa và sự trong sạch trong lòng, giúp chúng ta hiểu lý do tại sao giờ đây đề cập tới đề tài khảo sát tâm hồn của ngài qua các bài viết.

Có một đoạn văn không kém giá trị hơn một bài diễn văn dài thường được trình bày cho thấy đức hạnh của một con người. Don Bosco, một linh mục trẻ, chuẩn bị để in các mầu nhiệm kinh Mân côi. Khi nhìn vào bản in thử trong mầu nhiệm thứ ba mùa vui, trước mặt một người bạn là thần học gia, ngài nói: “Ta hãy suy ngắm Đức Trinh nữ rất thánh sinh… Không, không ổn. Ta hãy suy ngắm Chúa Cứu Thế sinh bởi Đức Maria Đồng trinh… không, cũng không được. Tốt hơn thế này: ta hãy suy ngắm Chúa Cứu Thế sinh tại Belem”. Sự trong sáng của tâm hồn ngài phản chiếu từ đầu đến cuối cuốn sách Lịch sử thánh, mà ngài đã soạn với một sự rõ ràng trước đó chưa từng có. Không có một chút gì có thể gây hại cho sự sáng ngời của đức trong sạch: người thiếu niên sẽ không gặp một chút bối rối nào, xét về kinh thánh không có vấn đề từ ngữ, xét về thuần phong mỹ tục ngài trình bày không chút ấn tượng nào về sự không thanh khiết. Khi tham khảo sách này, các giáo viên không còn gặp bối rối khi phải tìm cách trình bày một số điểm xem ra bất tiện. Đây quả là một kiệt tác của đức cẩn trọng Kitô giáo trong việc giáo dục thanh thiếu niên và là một đài kỷ niệm sống động của vẻ đẹp thiên thần bên trong của người đã phác họa ra nó.

Nhà viết tiểu sử hàng đầu về Don Bosco đã kể lại một giai thoại dường như thích hợp để làm chứng cho những gì chúng ta đã nói cho tới đây, hoặc hơn nữa bổ túc cho những gì người ta có thể thêm vào. Ngài viết: “Chúng tôi hoàn toàn tin rằng cái bí quyết mà làm cho ngài nên vĩ đại, tức là được đầy những ân ban phi thường để thực hiện những công cuộc kỳ diệu, đó là vì ngài luôn sống trong sáng và thanh khiết”.

Rảo qua những trang của cuốn Lịch sử thánh có một điều mới mẻ làm chúng ta ngạc nhiên: khi Don Bosco tránh đề cập một cách khéo léo những dữ kiện Cựu ước và tân ước, ngài đã thực hành một cách không hữu ý nhưng hữu hiệu khoa hộ giáo. Trước ngài có ai đã từng nghĩ ra cách rút từ các tường thuật của Kinh thánh để lột tẩy học thuyết tin lành? Đó chính là do sự nhậy cảm tinh tế của Don Bosco để bênh vực Giáo hội. Sự nhậy cảm đó chính là cái Sentire cum Ecclesia hoàn hảo của thánh Ignatio, được làm chứng bởi tất cả các sách của Don Bosco, từ các sách tiểu sử của các thiếu niên thánh cho tới loạt các nguyệt san cho mọi hạng người.

Thẩm quyền về giáo lý và về phẩm trật của Giáo hội công giáo đã phải để tâm đến các tư tưởng của một cây bút trong những gì liên quan đến Giáo hội. Chắc chắn điều đó có những tác động đem lại cho ngài niềm vui hoặc sự đau khổ, như người ta thấy được qua những xuất bản liên tục trong khoảng thời gian bốn mươi năm. Người nghiên cứu về các công cuộc của Don Bosco nếu muốn ghi khắc trên bia đá tư tưởng tiêu biểu về ngài, có thể áp dụng dùng lời ghi trên bia mộ của hồng y Mermillod: người yêu mến Giáo hội. Điều này càng đúng hơn nữa nếu người ta nghĩ, giống như trường hợp của vị giáo chủ người thụy sĩ này, Don Bosco đã chịu nhiều bách hại không thông thường vì chính nghĩa mà ngài theo đuổi.

Sự cố chấp của kẻ thù của Giáo hội rất lộng hành tại vùng Piedmont đến nỗi Don Bosco không thể có được sự kiểm duyệt cần thiết do giáo luật ấn định đối với các sách của ngài. Bởi thế tạp chí Letture cattoliche, vốn là đối tượng tấn công của các nhóm tin lành, trong thời gian đầu đã không có được sự phê chuẩn của những người trách nhiệm, chẳng có ai dám lãnh một trách nhiệm nguy hiểm như thế. Dù bị đe dọa liên tục bằng thư, bằng miệng và bằng vũ khí, ngài một mực tin tưởng vào Thiên Chúa và thách thức với quân Philistin, không tháo lui trong trận chiến thánh thiện. Sự nhậy cảm của ngài không bị biến thành sự liều lĩnh cố chấp, điều mà rất dễ xảy ra trong những trận luận chiến tôn giáo.

Tinh thần của Chúa nung đốt lòng nhiệt thành và điều khiển ngòi bút của ngài; hãy thử tìm xem trong vô số bài viết của ngài, sẽ không gặp được một lời, một khẩu hiệu, một ám chỉ có thể làm chứng chống lại ngài, đây chúng ta không muốn nói tới cái sâu thẳm trong ý nghĩ của ngài, nhưng sự không quan tâm bảo vệ mình lại khiến cho kẻ thù bị hạ bệ. Tiền đề “người mẹ thánh thiện của chúng ta, người mẹ tốt lành của chúng ta” và những lời tương tự trở thành lời công thức của ngài để nói về Giáo hội công giáo đứng trước kẻ tin cũng như kẻ không tin. Người ta nói rằng mối bận tâm ưu tiên của ngài, gần như nỗi đam mê của ngài, là làm cho các tâm hồn yêu mến Giáo hội. Người ta cũng nói rằng lòng yêu mến Giáo hội của ngài cũng chính là lòng đạo đức, một ân ban của Chúa Thánh Thần.

Không chỉ trong sách viết mà cả trong thư từ, Don Bosco đã viết cả một số lượng không thể tin nổi gởi đi khắp nơi trên thế giới, về cả ngàn đề tái khác nhau, cho các giáo chủ, các vua chúa và giới qúi tộc, cho các cá nhân và cộng đoàn tu sĩ, cho các công nhân, cho các bà và các thiếu niên. Nhưng điều chúng ta quan tâm đó là các thư từ này phản ánh tinh thần của người viết. Và chúng ta giới hạn sự tìm kiếm của chúng ta ở điểm này.

Sự mau chóng trả lời khiến ngài đặt mình viết trên giấy không suy nghĩ nhiều đến nỗi có nguy cơ sai lỗi trong hình thức, tuy nhiên không khi nào làm ngài mất hướng tư tưởng và thói quen suy nghĩ một cách thánh thiện, đến nỗi có khi ngài để lộ những điều liên quan đến đời sống nội tâm của ngài. Nơi thư từ của Don Bosco người ta không thấy có một số hỏi han về những vấn đề thiêng liêng như thường thấy trong các thư từ của những tâm hồn đạo đức. Những điều này ngài trực giác được một cách dễ dàng; nhưng về những tình trạng nội tâm sâu kín ngài không  cho rằng phải nói bằng lời. Đối với chúng ta những điều ngài viết là sự phản chiếu tất yếu sự kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa trong cõi lòng của ngài: tức là một sự hoàn toàn tùng phục ý thánh ý và vinh quang Thiên Chúa, phần rỗi các linh hồn, các bí tích, kinh nguyện, sự xúc phạm tới Thiên Chúa, sự tín thác vào Chúa quan phòng, nhắc nhở tới ngày lễ trọng, những trích dẫn kinh thánh, những lời nguyện tắt.

Ngài thường kèm với thư các hình ảnh với những lời nho nhỏ, để nhắc nhở tâm trí người ta tới các sự việc thiêng liêng. Và giọng viết của ngài. Đọc một số thư của ngài rồi, chúng ta sẽ thấy trong mình một cảm nhận niềm bình an vốn luôn gắn liền với những ý nghĩ, lời nói và hành vi tốt lành. Ai trong chúng ta đã chẳng có lần nhận được những lá thư với những lời lẽ cay cú và gây hấn đó sao? Ngài thường nói rằng trả lời ngay lập tức với sự ngọt ngào và kính trọng sẽ đem lại chiến thắng, sẽ biến đổi thù thành bạn. Biết bao lần ngài đã chứng minh được điều này! Sau cùng, điểm đáng nói nữa trong các thư của ngài là sự tự nhiên khi ngài nói đến danh Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Đức Mẹ. Danh của các vị này, theo như người viết hồi sử Don Bosco “đang khi viết ngài cũng phát âm bằng tất cả sự yêu mến của cõi lòng; tuy nhiên ngài làm cho đừng ai nghe thấy, vì ngài tránh tất cả những gì khác thường khiến nó giống như hơi thở của mình được ghi ra trên giấy vậy”.

Y thức về căn tính riêng đạt tới mức độ thâm sâu khi người linh mục trở thành alter Christus thực sự, cá vị hóa bản thân mình theo con người Chúa Giêsu Kitô.


Chú thích

76 Filotea. Introduzione.

77 Oevres, vol XVI, p. 55. Lettera al Duca di Belgarde.

78 S. Bonaventura, De regula novitiorum, I.

79 Thư của Mons. Eugenio Galletti, Giám mục Alba, ngày 3 tháng chín năm 1874.

80 Thư của Don Marenco gởi Don Gusmano, Roma, ngày 21 tháng năm 1908.

81 Giulio Salvadori, khi xuất bản những vần thơ “Ad una poetessa” (Ricordi dell’umile Italia, p. 111).

82 Cv 6, 4; 20, 24.

83 Tạp chí La Civiltà cattolica. A. IV, s. II, v. III, p. 112.

Chương XI. Nhà giảng thuyếtChương XIII. Nhà giáo dục