Chương XI. Nhà giảng thuyết

Sự thân mật với Thiên Chúa là linh hồn của tác viên giải tội, thì cũng đồng thời cũng là nguyên lý sống của tác vụ giảng dạy. Không phải bằng tư tưởng của riêng mình mà Don Bosco truyền bá trên toà giảng, lời giảng của ngài luôn thấm nhuần và lấy sinh khí từ lời Chúa .

Không may thay, tòa giảng lại là nơi những người giảng lời Chúa thường hay bị cám dỗ. Người ta tỉ mỉ để ý tới những ý tưởng hay ho, những hình ảnh mới lạ, những trang điểm tinh vi, những hình thức lịch lãm, bằng cung giọng và bằng những hình thái; rồi dưới hình thức của sự lịch thiệp, người ta nịnh bợ đối với những người khó tin. Thật khốn khổ một vị giảng thuyết tìm kiếm bản thân mình khi giảng, họ không thể nào có thể che dấu được, bởi vì mọi sự che đậy đều sẽ bị lộ tẩy; họ làm những người hời hợt xa khỏi những suy tư nghiêm chỉnh mà lời Chúa phải tác động trên họ, nhưng lại làm cho những người đàng hoàng cảm thấy chán ngán. Đúng như lời thánh Phaolô nói đó là sự nịnh bợ lời Chúa72 vốn không sinh hoa trái nào.

Chính Don Bosco cũng đã không bị miễn khỏi những cám dỗ tinh thần đó khi ngài mới bắt đầu giảng, ngài không giấu chi điều đó. Là người có khả năng, học hỏi kỹ lưỡng, trí nhớ vượt bậc, môi trường dân chúng thấp kém, tất cả những điều đó thúc đẩy ngài, nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa đã mau chóng không để cho tên ma quỉ cái tôi có thể sống sót.

Trong các bài giảng, Don Bosco luôn khiêm tốn chuẩn bị; vì thế ngài cũng khuyến cáo các người tập sự, “bài giảng sinh nhiều hiệu quả tốt, chính là bài giảng có nghiên cứu và chuẩn bị”. Ngoài ra ngài còn đặt vào trong đó lời cầu nguyện khiêm tốn; còn hơn nữa khi ở Torino ngài đều đặn xưng tội mỗi tám ngày, dù giữa những lao nhọc tông đồ ngài khiêm tốn đến với tòa cáo giải, với mục tiêu duy nhất là để mình trở thành dụng cụ bớt bất xứng của ân sủng để mưu ích cho các linh hồn. Như thế bất cứ nơi đâu ngài công bố lời Chúa – ngài giảng rất nhiều lần và nhiều nơi, kể cả ngoài nước Ý – ngài tỏ ra không chỉ đơn giản đi giảng mà được sai phái, là thừa tác viên, để công bố sự hiểu biết sinh ơn cứu độ cho dân của Người.73

Trong thánh lễ mở tay Don Bosco đã sốt sắng xin Chúa ơn hiệu năng của lời, nghĩa là sức thuyết phục để làm ích cho các linh hồn. Ơn này đã được ban cho ngài hơn cả lòng mong ước đến độ về cuối đời, ngài viết một cách khiêm tốn mà đầy đủ sự thật: “Có vẻ Chúa đã nghe lời nguyện khiêm tốn đó của tôi”.

Liên quan đến lời ngài trên toà giảng, xin hãy biết rằng các bài giảng của ngài từ lúc bắt đầu tới lúc kết không bao giờ vội vã, không làm cử điệu, nhưng một cách chậm rãi, giọng bình thản, ngôn ngữ bình dân, không thiếu cung điệu thuần túy Piedmonte; ngay cả có khi xảy ra hơi dài trong những trường hợp đặc biệt; người ta thích thú vì ngài giảng với sự hăng hái và tự nhiên.

Chẳng hạn tại Saliceto vùng Mondovi, do dân làng nài ép ngài giảng, ngài làm một mạch sáu tiếng không nghỉ giải lao. Xin cũng hãy biết rằng các đề tài của ngài là những vấn đề người ta đã nghe nhiều: tầm quan trọng của sự cứu rỗi linh hồn, mục đích của đời sống con người, sự ngắn ngủi của cuộc sống, sự bất chợt của cái chết, sự ghê sợ của tội lỗi, sự xử phạt sau cùng, sự tha thứ những xúc phạm, sự trả lại của lấy cắp, sự xấu hổ sai trái khi xưng tội, sự nóng tính, lộng ngôn, sự sử dụng tốt nỗi nghèo khó và quẫn bách, sự thánh hóa các ngày lễ, sự cần thiết và cách thức cầu nguyện, sự thường xuyên lãnh nhận các bí tích, thánh lễ, sự học đòi gương Chúa Giêsu Kitô, lòng sùng kính Đức Mẹ, sự bền đỗ. Dù đề tài đã nghe nhiều thế mà người ta nghe ngài không chợp mắt, cùng với các đám trẻ có cả những người quyền qúi và học thức, các giáo sĩ và giám mục. Họ không bị hấp dẫn bởi những nét nhân loại, nhưng bị cuốn hút một cách êm dịu bởi ngọn lửa thần linh, ngọn lửa mà hai người môn đệ trên đường làng Emmaus nói cho nhau về người khách bí nhiệm.

Thật thế! Người ta có thể áp dụng đúng cho Don Bosco vị giảng thuyết lời xướng đáp mà các đan sĩ Trappisti đọc trong lễ thánh Gioan thánh sử: “Dựa đầu vào ngực Chúa, ngài kín múc trực tiếp tự nguồn mạch thần linh nước cứu độ của Tin Mừng, và loan truyền cho tất cả thế giới ơn ban lời Thiên Chúa”. Tất cả các thánh sử đều được linh hứng, nhưng làm sao người ta có thể phủ nhận nơi thánh Gioan quyền lực của thứ ngôn ngữ mà đã xuất phát từ trái tim đi tới trái tim? Và từ đâu mà ngài kín múc nếu không phải từ Trái Tim, nơi mà vị tông đồ đã dựa vào trong bữa Tiệc Ly, nơi trở thành nguồn mạch đích thực cho sự hùng biện thánh? Chính đó là nơi đã làm nên các nhà hùng biện linh mục công giáo. Don Bosco không phải không xứng danh mang tên là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.

Cái nét riêng biệt này gợi nhớ chúng ta tới sự ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho thánh Gioan theo như suy tư của thánh Giêrôm, và đưa chúng ta đến với một chứng từ trong ký sự một bạn trẻ tại Nguyện xá về việc giảng thuyết của Don Bosco; ký sự đó viết ngày 29 tháng năm năm 1861: “Xa khỏi nhà thờ, rất nhiều bạn kinh ngạc thốt lên với tôi và với những bạn khác: - Sáng nay Don Bosco nói thật là hay! Tôi sẽ tới nghe ngài dù ngày hay đêm! Ôi! giá mà tôi có được ơn đó khi tôi làm linh mục để tôi có thể làm cho trái tim của giới trẻ và của mọi người biết yêu mến nhân đức tuyệt đẹp đó!”. Sáng hôm đó, Don Bosco đã giảng về đức trong sạch.

Có một ý tưởng chủ trị trong bài giảng của Don Bosco: sự cần thiết của việc cứu rỗi các linh hồn. Ở điểm này các linh mục phải là tiếng nói của Thiên Chúa cho các linh hồn trong những gì liên quan đến phần rỗi. Don Bosco luôn coi đây là nhiệm vụ cao trọng nhất. Ngài không chuẩn miễn cho mình làm các bài tán tụng Đức Mẹ và các thánh, một hình thức của khoa hùng biện thánh, mà các vị diễn thuyết thường dễ dàng bỏ qua: người ta chờ đợi và người ta đòi phải có cái mới mẻ và cái tinh tuý. Đây là lý do tại sao chân phước Cafasso không có nhiều thiện cảm đối với loại văn này: nhưng về Don Bosco, vị thầy này không có lý do để trách cứ đệ tử.

Đây chúng ta xem một bài: đó là bài tán tụng thánh Philiphe đọc vào năm 1868 tại Alba. Bỏ qua những điểm khác, Don Bosco đào sâu về một đề tài, mà theo ngài, là điểm bản lề dựa trên đó các nhân đức khác của vị thánh xoay chuyển, “lòng nhiệt thành vì phần rỗi các linh hồn”. Don Bosco miêu tả thánh Philiphe như vị tông đồ sống động; và khi biết rằng trong số thính giả có đông các linh mục, ngài nhấn mạnh hơn nữa điểm này. Ngài đặt giả định rằng phải chăng người ta cảm thấy thán phục các công cuộc của thánh Philiphe để cứu rỗi giới trẻ, bởi vì đó là vị thánh. Đứng trước tiền đề này ngài trả lời: “Tôi nghĩ khác. Thánh Philiphe làm  các điều kỳ diệu này đơn giản chỉ vì ngài là một linh mục sống đúng theo tinh thần ơn gọi của mình”. Tới điểm này Don Bosco nhấn mạnh trên sự cần thiết phải bắt chước vị thánh trong việc tụ họp giới trẻ để dạy giáo lý cho chúng, để sinh động chúng trong bí tích giải tội. Bởi thế sau khi cảnh cáo các bậc cha mẹ, các ông chủ và các giáo viên, ngài tiếp tục nói trong một sự hăng say tông đồ: “Thật là một tình thế kinh hãi đối với một linh mục, khi phải ra trước tòa của vị Thẩm phán thần linh, nghe Người nói rằng: “Hãy nhìn xuống trần gian: bao nhiêu linh hồn đang buớc đi trên đường bất chính và đang liều mình đi trên đường hư vong! Những linh hồn đang ở trên con đường xấu vì ngươi, ngươi đã không quan tâm làm cho chúng nghe biết về bổn phận, ngươi đã không tìm kiếm và không cứu vớt chúng. Những linh hồn khác vì ngu dốt nên đã ngày càng đi sâu trong tội, giờ đây đang ở trong hoả ngục. Ngươi hãy nhìn coi, số những linh hồn ấy đông biết chừng nào! Những linh hồn ấy đang kêu tiếng báo oán với ngươi. Giờ đây, hỡi đầy tớ bất trung và gian ác, hãy tính sổ với ta. Hãy tính sổ với ta về kho tàng qúi gía mà ta đã trao phó cho ngươi, kho tàng mà đã trả giá bằng cuộc khổ nạn, bằng máu và bằng cái chết của ta. Linh hồn ngươi được dành cho linh hồn của kẻ mà lỗi ngươi đã làm nó hư mất”. Kết thúc bài giảng ngài khích lệ mọi người hãy tín thác vào ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Như người ta thấy, tên tuổi nhà giảng thuyết Don Bosco rất được dân chúng biết đến: ngay cả trong những bài thơ ca của ngài, ngài không quan tâm đến sự phê phán của người khác, ngài muốn và biết cách đề cập đến điểm chính. Một số nữ tu tại một đan viện nổi tiếng ở Roma đã mời ngài giảng một bài ca tụng một vị thánh nữ tử đạo bổn mạng, đã nghiệm thấy điều này. Họ khao khát nghe tiếng ngài, hy vọng được nghe từ ngài những điều mới lạ.

Don Bosco nghe biết rằng sẽ có một sống quí ông quí bà danh gía sẽ đến, ngài có hứng làm bài thơ ca đó. Bắt đầu giảng ngài nói rằng từ hơn một trăm năm rồi, tại nơi đó người ta luôn lập lại bài thơ ca tụng vị thánh, cho nên có lẽ ngài không cần phải lập lại những gì mà mọi người đã biết; vì thế ngài nghĩ rằng tốt hơn nên thay đổi đề tài và đề cập tới sự cần thiết hướng tới sự trọn lành và cứu rỗi linh hồn nhờ vào việc xưng tội tốt.

Thế là, không chút e ngại, không nghĩ gì tới mình, ngài bắt đầu ngay với một phát súng bắn hai con chim. Với các nữ tu ngài nói tới sự trọn lành, với nhóm người đời ngài nói tới sự cứu rỗi linh hồn. Ngài khiến tất cả làm một cuộc xét mình về những lần đã xưng tội trong quá khứ. Sự thất vọng của mấy bà sơ có lẽ sẽ làm cho thành quả của bài giảng thành mây khói chăng? Không, nếu người ta quan sát tới thái độ lắng nghe của họ. Chắc hẳn không dễ hiểu cho ai không biết rằng luật đầu tiên của người giảng thuyết thánh là đừng nghĩ gì tới chính mình. Khoe khoang cái tôi nơi toà giảng là biến mình thành não bạt vang động và chủm choẹ lẻng xeng.74 Thay vào đó nơi miệng người rao giảng Chúa Giêsu Kitô phát xuất ra lời sống động và sắc bén như gươm hai lưỡi thâm nhập vào tận cốt tủy của con người.

Có một lần duy nhất trong đời Don Bosco xem ra không chỉ có thể biện minh, nhưng cũng nên có một chút vui vẻ trong vấn đề đạo đức; hơn nữa chính Don Bosco không thiếu chuẩn bị về việc này. Các tác giả cổ điển đã không cống hiến cho ngài trong khoảng mười năm, kể cả ngoài ở trường học, cái thú nghiền ngẫm văn chương đó sao? Điều này không phải vô ích.

Năm 1874, các người bạn ở Roma đã thuyết phục ngài gia nhập phong trào thơ văn cổ Italia. Hai năm sau đó, Hội chỉ định ngài thuyết trình một bài về cuộc khổ nạn của Chúa trong cuộc họp trong thể của hội vào ngày thứ Sáu tuần thánh. Don Bosco không phải không biết hay giả vờ không biết tình huống: tính cách văn chương của phong trào, truyền thống của các linh mục triều nhận chức vụ này đôi khi rất nổi tiếng khi bàn về văn học cũng như tiếng tăm của những người tham dự. Đối với Don Bosco hôm đó là “trách nhiệm đọc một bài văn” và ngài thú nhận là “sự lưu loát trong cách nói, sự sang trọng trong cung cách diễn tả” luôn “tỏa chiếu” trong “hội trường khoa bảng” đó đã làm ngài “không ít sợ sệt”, nhưng ngài cảm thấy vững tâm khi nghĩ rằng “ngòi bút sang trọng” của người khác sẽ bổ túc cho sự “thiếu sót” của ngài.

Tuy nhiên, Don Bosco, giống như ở mọi nơi và mọi chỗ, muốn hiện diện ở đó một cách đơn giản như một linh mục. Thật vậy, sau khi ngài trình bày mình như “một linh mục khiêm tốn”, ngài bắt đầu nói như là một linh mục. Ngài không trình bày thần học tu đức cũng không một kiểu hùng biện bởi vì không phải là toà giảng; cũng không thuần tuý trình bày kiến thức hoặc thuần túy chú giải vì không phải là trường học. Đâu có ai ngờ ngài chọn đề tài về Bảy lời của Chúa. Theo cái nhìn linh mục của Don Bosco xem ra vô nghĩa khi một linh mục trong ngày thứ Sáu tuần thánh, hơn nữa vào đúng giờ đó, thay vì nói về sự hiến tế đau thương hiến dâng lên vị Thượng tế vĩnh cửu hai ngàn năm qua, lại làm một diễn từ thuần túy văn chương. Dẫu rằng làm như thế ngài biết rằng có lẽ sẽ ngược đời, nhưng ngài không thối lui; bởi đó khi đã công bố đề tài, ngài tuyên bố thêm rằng ngài dành “những ý niệm cao siêu” và “những hứng khởi thi vị” cho sự thông thái của người khác, và ngài cảm thấy hài lòng rằng, nếu sự nhỏ bé của bài thuyết trình của ngài không có lý do để vỗ tay tán thưởng, thì nó cũng cống hiến động lực để thực thi lòng từ bi thương cảm.

Chấm dứt phần mở đầu. Bầu khí tỏ vẻ thuận lợi, ngài vào ngay đề tài với sự đơn giản thanh thản: “Sau khi chịu vô số cực hình và xỉ nhục, chịu đánh đòn cách không thương xót, mang mạo gai trên đầu, chịu kết án tử nhục nhã, Chúa Cứu Thế đáng mến trong khi toàn thân đau đớn phải mang cây khổ giá tới tận Golgota”. Tương tự như thế, với lối diễn tả sâu sắc và khách quan. Chất liệu trình bày được lấy từ Kinh thánh, các giáo phụ, thánh Toma, từ các nhà chú giải, với một chuẩn mực và phương pháp trích dẫn hoàn hảo. Không tỏ tình cảm riêng tư của mình: Don Bosco là một vị thánh hầu như bị dẫn dắt bởi một sự cẩn trọng thiêng liêng, ngài không tiết lộ những hoạt động sâu kín của ân sủng bên trong mình.75 Nhưng người ta nhận ra ngay những ý định của ngài: ý định của một linh mục, luôn là thế, muốn soi sáng cho các linh hồn bằng cách giúp họ xa tránh tội lỗi và đưa họ tới gần Thiên Chúa.


Chú thích

72 2 Cor 2, 17.

73 Lc 1, 77.

74 1 Cor 13, 1.

75 Is 24, 16.

Chương X. Vị giải tộiChương XII. Nhà văn