Chương X. Vị giải tội

Sự gặp gỡ thân mật thực sự với Thiên Chúa sẽ khiến cho một linh mục không chỉ biết mà còn cảm thấy mình là một con người được thánh hiến, không khi nào ý tưởng về đặc tính này trong lương tâm bị lu mờ, bất cứ điều gì ngài nói và làm, nơi riêng tư hoặc nơi công cộng, trực tiếp hay gián tiếp, khi tiếp xúc với người khác ở mọi cấp bậc, tầng lớp hay điều kiện xã hội. Tinh thần linh mục toát ra từ tất cả cuộc sống, tỏa chiếu ra chung quanh các tác động siêu nhiên có sức chữa lành và thanh tẩy các linh hồn, cũng cố họ trong điều lành và nâng họ lên những sự trên trời. Giống như nhân tính của Đức Giêsu kết hợp với thần tính, trở thành dụng cụ cho những hoạt động kỳ diệu, cũng thế trong đời sống nội tâm của người linh mục không có một lời hoặc một hành động nào mà không mang dấu ấn linh mục và không phục vụ cho việc cứu độ các linh hồn, đến độ người ta có thể nói về linh mục rằng từ nơi ngài xuất phát ra sức chữa lành mọi bệnh tật thiêng liêng.68 Chúng ta sẽ thấy điều này khi xem xét các hoạt động của Don Bosco trong tòa giải tội, nơi toà giảng, với việc in ấn và trong tư cách nhà giáo dục.

Về việc giải tội, người ta sẽ không hiểu cung cách của Don Bosco khi ban bí tích một cách đầy đủ, nếu không lưu tâm đến thực hành cá nhân cũng như giáo huấn của ngài.

Don Bosco thân thiết với việc xưng tội ngay từ tuổi còn nhỏ, chẳng có một thay đổi nào trong cuộc sống đã có thể làm suy giảm sự yêu thích thường xuyên tới gần toà giải tội. Thật vậy cậu đã đi xưng tội cách tự ý, ngay cả khi mẹ cậu không dẫn cậu đi nữa và đi một cách thường xuyên, không như thói quen thời đó đặc biệt đối với tuổi thiếu niên, càng ít hơn nữa đối với trẻ con đồng quê.

Lúc là cậu học sinh ở Chieri hoàn toàn tự do, cậu đã nghĩ tới việc tìm cho mình một vị giải tội cố định. Vị này dù biết rằng cậu thuộc tầng lớp xã hội khiêm tốn và chất phác, nhưng thấy cậu thường xuyên xưng tội cách tử tế đã phỏng đoán được những điều lớn lao nơi cậu. Là một thầy tư giáo trong đại chủng viện, thầy nổi bật ngay lập tức về sự có nề nếp chính xác, không tuần nào không đến với toà giải tội. Làm linh mục ở Torino, ngài xưng tội mỗi tám ngày nơi chân phước Cafasso. Khi vị đầy tớ Chúa này qua đời, ngài đến với tác vụ của một linh mục đạo đức và cũng là bạn học, vị này mỗi ngày thứ hai đến nghe xưng tội trong phòng thánh của thánh đường Mẹ Phù Hộ, và vị này đến lượt ngài lại xưng tội với Don Bosco.

Trong các chuyến du hành và khi cha giải tội riêng đi vắng, ngài vẫn giữ trung thành việc thực hành này, tìm đến một Salêdiêng hoặc một người khác, tùy theo trường hợp. Chẳng hạn trong khi ở lại Roma hai tháng vào năm 1867, ngài xưng tội hằng tuần với cha Vasco, một tu sĩ dòng tên mà ngài quen biết khi ở Torino. Con cái ngài thì lúc đầu tỏ ra do dự, nhưng ngài nói: “Con cứ làm đi, hãy làm việc bác ái cho Don Bosco, hãy để cho ngài xưng tội”.

Đáng chú ý nữa là cách thức ngài chu toàn công việc thánh thiện này, điều này chúng ta đã đề cập tới rồi, nhưng ở đây muốn hoàn tất nó. Để xưng tội, ngài không tìm một nơi tách biệt vào những giờ riêng, nhưng ngài đi xưng tội như bao nhiêu người trước mắt những kẻ khác. Chính vì thế các tín hữu và các thanh thiếu niên có cơ hội quan sát ngài trong khi chuẩn bị cũng như khi cám ơn trong một cách thức hết sức hồi tâm vào sự thánh thiện của hành vi. Thực hành bí tích giải tội thuờng xuyên với tâm tình sống động và bền bỉ như thế tạo nên một sự tỉnh thức và một sự canh chừng liên lỉ cõi lòng. Sự canh chừng này sẽ cất đi ngay cả những cản trở nho nhỏ đối với hoạt động của Chúa Thánh Thần, và khiến cho ân sủng thần linh luôn tuôn đổ trong linh hồn.

Sự thực hành cá nhân của Don Bosco trong vấn đề xưng tội được phản chiếu trong các giáo huấn viết cũng như diễn từ của ngài, ghi dấu một nét riêng biệt của ngài. Đó là chiều hướng rõ rệt không chỉ nhằm thu hút mà muốn làm cho các tín hữu, đặc biệt giới trẻ vốn là đối tượng của sứ mệnh được quan phòng, cảm nếm được bí tích này.

Sự độc đáo của Don Bosco khi viết về việc xưng tội, không phải vì vấn đề mới mẻ, nhưng trong sự hăng hái tông đồ để làm cho người ta yêu mến bí tích mà chính ngài yêu mến. Trong cuốn Cuộc đời Michele Magone ngài thêm vào một phần, trong đó với những từ ngữ đượm tình bác ái linh mục ngài hướng tới thanh thiếu niên, khuyến khích chúng có sự tín nhiệm con thảo đối với cha linh hướng, và sau đó hướng tới các cha giải tội cho giới trẻ để khuyên nhủ các ngài thực hành lòng nhân hậu của người cha trong việc thực thi tác vụ thánh.

Cả trong một kỷ niệm để lại cho các Salêdiêng, ngài muốn rằng người linh mục, khi được mời nghe giải tội, “phải tỏ ra một tâm hồn hoan lạc” và “không ai được dùng lời lẽ thiếu tế nhị cũng như không được tỏ ra thiếu kiên nhẫn”, và khuyên nhủ rằng “phải tiếp nhận các trẻ với cách thức dịu dàng và lịch thiệp”, không bao giờ được lãng quên giới trẻ cũng như không được tỏ ra kinh ngạc về sự dốt nát hoặc về những điều chúng xưng thú. Cũng trong chính kỷ niệm này ngài đề ra như một quy tắc: “Đây là điều vô cùng quan trọng và hữu ích cho giới trẻ: phải làm sao để đừng em nào khi đi ra mà không cảm thấy hài lòng vì chúng ta”.

Trong cuốn Giovane Provveduto ngài hướng dẫn một cách thật khéo léo, khiến cho ai theo, sẽ có thể xưng tội với sự mãn nguyện thiêng liêng. Thật vậy đọc những trang viết rất đơn sơ và ngot ngào này, ngay cả những người không còn trẻ nữa, ngay cả những người trên trán đã nhiều vết nhăn vì suy tư, cũng nghiệm thấy một cảm thức về sự tín thác khiến tự mình cảm thấy muốn đi tới bên cha giải tội trong một tâm tình đơn sơ như thời còn trẻ thơ. Cả trong quy luật của Nguyện xá, của các trường và của các hiệp hội, việc xưng tội chiếm một vị trí hàng đầu, nhưng luôn được trình bày trong một vẻ thanh thản và có thiện cảm.

Ngài viết thế nào, thì khi nói cũng vậy. Nhà viết tiểu sử hàng đầu về Don Bosco khẳng định rằng: “mỗi câu nói của Don Bosco đều là một sự kích thích người ta xưng tội”. Dù biết rằng mọi câu nói thậm xưng đều có một nền tảng trong thực tế, chúng ta bỏ qua một bên những gì liên quan tới tầm mức rộng lớn mà kiểu nói này có thể hàm chứa. Tuy nhiên liên quan tới sự hữu hiệu của việc kích thích lãnh bí tích giải tội mà Don Bosco đã làm thì không có chi phải tranh cãi, vì đó là điều có tính sự kiện. Chúng ta gọi đó là sự kiện vì nó rõ rành cả về con số lẫn về sự đa dạng trong các hoàn cảnh, đến nỗi khi đọc các tường thuật, người ta ngạc nhiên và thán phục sự kỳ diệu của ân sủng trong công trình cứu độ.

Ý nghĩ phải trở về với Thiên Chúa trở thành sức mạnh không chống cưỡng nổi trong tâm trí những người mà Don Bosco mời gọi họ xưng tội, tới độ họ qùi dưới chân ngài và giãi bày lương tâm, cả thanh thiếu niên của ngài cũng như người lạ mặt, công nhân cũng như chuyên gia, người đơn sơ chất phác cũng như quí ông có quyền chức, người tốt cũng như kẻ gian ác. Những chiến công của Don Bosco trên mặt trận này không kể xiết. Sự tài tình tìm ra cách để nói với các trái tim và dẫn họ đến thực hiện một hành vi tự nó nghiêm chỉnh và tế nhị, đụng chạm tới những vấn đề cá nhân, sẽ không thể nào có được nếu, ngoài một đức tin mạnh mẽ và một sức mạnh tông đồ lớn lao đối với bí tích giải tội, không có một phẩm chất khác vốn là linh hồn của tất cả. Phẩm chất nào vậy? Chính Don Bosco đã buột miệng để lộ ra điều này.

Năm 1862, nhân danh một linh mục ở Osimo người ta xin ngài cho biết bí quyết của ngài để chiếm cõi lòng, ngài trả lời: “Tôi không biết nó là gì. Nếu vị linh mục tốt lành đó yêu mến Thiên Chúa, ngài cũng sẽ thành công còn hơn cả tôi nữa”.

Chúng ta tìm được trong cuốn sách của Chautard69 một chú giải hay về những lời này. “Giữa sự tốt lành tự nhiên vốn là hoa trái của tính tình, và sự tốt lành siêu nhiên của một vị tông đồ có một khoảng cách giống như giữa con người và thần linh vậy. Cái thứ nhất có thể làm phát sinh sự kính trọng, ngay cả sự thiện cảm đối với người thợ của tin mừng. Điều này có thể làm họ trệch đường, hướng tình cảm tới tạo vật, điều mà đúng ra họ phải dành cho Thiên Chúa mà thôi; nhưng không có khả năng đưa các linh hồn đến chỗ biết thực hiện sự hy sinh cần thiết để trở về với Đấng dựng nên họ. Chỉ có sự tốt lành phát xuất từ sự kết hợp với Chúa Giêsu mới có thể đạt được hiệu quả này”.

Nếu Don Bosco thực hiện điều này trong những cuộc gặp gỡ riêng tư, chúng ta tin rằng ngài đã phải lợi dụng thời cơ để truyền đạt giáo lý và truyền bá lời Chúa. Trong khi dậy giáo lý, ngài không bao giờ ngừng bắt đầu lại để nói về những dự thế cần thiết để lãnh nhận có ơn ích bí tích giải tội, tỏ lộ một cách sống động lòng nhân lành của Chúa khi thiết lập bí tích và những ích lợi của nó đối với các linh hồn. Khả năng sống trong sạch và chỗi dậy khi bị sa ngã tuỳ thuộc vào lòng yêu mến việc xưng tội và rước lễ.

Ít khi trong các buổi nói chuyện với thanh thiếu niên, huấn đức cho các nhân sự, giảng cho các tầng lớp thính giả, mà ngài không động tới, dù thời cơ thuận lợi hay không thuận lợi, bí tích giải tội. Làm thế ngài không sợ làm chói tai người nghe hay sao? Không. Người nói với đức tin và tình yêu thì nói trong sự hứng khởi, lôi kéo người nghe. Thật vậy hồng y Cagliero, người đã nghe cả trăm lần, nói rằng về đề tài ưa thích của Don Bosco, “ngài nói theo những cách thức luôn mới và hấp dẫn”. Đối với bất cứ người nào, nhóm nào ở trước mặt mình, Don Bosco không thấy đó như con người mà như các linh hồn. Cái nhìn này khơi dậy trong ngài hai tâm tình, một tâm tình khao khát và một tâm tình sợ: khao khát đưa tất cả lên thiên đàng, sợ hãi vì có thể để một số xuống hỏa ngục. Hai tâm tình này khi được hoà lại trong tình yêu Thiên Chúa tạo nên một động lực sâu xa khiến ngài hoạt động và nói năng, tạo nên một cung cách riêng cho các cuộc nói chuyện của ngài. Dù mang nhiều vẻ khác nhau, một trong những cách diễn tả thông thường và tự phát của ngài, đó là kêu mời lãnh bí tích giải tội.

Ngoài việc kích thích người ta lãnh bí tích giải tội bằng ngòi bút và bằng lời nói, điều diễn tả đức ái của hằng thiêu đốt trái tim của Don Bosco yêu mến Thiên Chúa chính là cách thức ngài ban bí tích này.

Huysmans, một người trở lại đạo vĩ đại, như tại Pháp người ta gọi ông như thế, cho rằng đối với những người như ông “do một biến cố tất cả cuộc sống của họ được đặt dưới chân một vị linh mục”. Có lẽ thật hay và tốt nếu “được nâng đỡ” và “trợ giúp” như Don Bosco đã giúp các hối nhân bởi vì “cách thức ngài giải tội làm người ta nhớ tới tình thương xót vô bờ của Chúa Giêsu”.70 Chỉ cần nhìn ngài giải tội cũng đủ làm phát sinh nơi kẻ quan sát sự cung kính và tình yêu mến đối với bí tích này.

Với một cảm thức đặc biệt về những sự thần linh, Don Bosco đi tới chỗ ngồi giải tội. Trước khi đi tới ngài đã bỏ mũ, cầm nó trong tay để trước ngực, và không ngồi xuống mà trước đó chưa cầu nguyện và làm dấu thánh gía. Thông thường ngài ngồi giải tội trong một chiếc ghế dựa lớn có chỗ dựa tay, với hai bàn qùy hai bên. Dáng điệu ngài như người đại diện cho Thiên Chúa, nghĩa là đáng kính và nhân lành. Hai đầu gối chụm lại, chân để trên kệ, thân mình thẳng, đầu hơi cúi, nét mặt thu hút trong hành vi thần linh và hoàn toàn thấm nhập tinh thần của Chúa. Ngài quay sang bên phải và bên trái cách nhẹ nhàng. Khi tiếp nhận hối nhân, ngài không nhìn vào mặt và không tỏ dấu muốn biết mặt họ; nhưng đặt khuỷ tay trên bàn qùy, để tai lại gần miệng hối nhân. Ngài lắng nghe chăm chú, điệu bộ không thay đổi và luôn tỏ một vẻ dịu dàng.

Điều gì đã xảy ra giữa ngài và các hối nhân, chúng ta không biết được nếu không phải là từ những người đã có cơ hội xưng tội với ngài. Một trong số họ là hồng y Cagliero, người đã xưng tội với Don Bosco trong hơn ba mươi năm. Trong án phong thánh và cả ở những chỗ khác, ngài đều nói: “Thật đáng khâm phục sự tốt lành của ngài đối với thanh thiếu niên và người lớn. Hầu như tất cả chúng tôi đều xưng tội với ngài, hưởng được sự ngọt ngào cũng như đức ái luôn kiên nhẫn hiền từ của ngài. Việc giải tội ngắn nhưng không vội vã. Tốt lành và không bao giờ nghiêm khắc, ngài cho chúng tôi việc đền tội nhỏ, phù hợp với tuổi tác và sức khỏe của chúng tôi. Ngài biết trở nên nhỏ với các trẻ nhỏ, cho chúng tôi các chỉ dẫn thích hợp, và những lời khiển trách cũng được thực hiện với cùng một hương vị, đổ vào tâm hồn chúng tôi lòng yêu mến các nhân đức và sự sợ tội lỗi. Một khung cảnh thiên đàng toả ra quanh con người và quanh những lời khuyên của ngài”.71

Người ta nghe biết nhiều người khi đến với ngài không mấy tin tưởng, khi trở về lòng đầy an ủi, đầy tín thác nơi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Cách thức ngài giải tội khơi dậy nên sự tín nhiệm, khiến cho người đã cảm nghiệm không thể nào quên được. Bởi thế các hối nhân khi gặp lại ngài, ngay cả có khi sau nhiều năm, hoặc tự phát ra những tâm tình như thể giải bày tâm hồn và nói từ khi nào họ chưa xưng tội, hoặc có khi do ngài hỏi, họ đáp lại một cách chân thành đầy tình cảm. Nhiều người khi biết ngài đang có mặt ở nơi nào đó, liền từ nơi xa nhanh chân tìm đến để có thể xưng tội với ngài.

Có lẽ chưa nói đủ về cách thức ngài giải tội, nếu chưa thêm vào hai nhận xét nữa. Những nhận xét này giúp thấu hiểu nhiều hơn chiều sâu đời nội tâm của ngài.

Thứ nhất, khi giải tội, ngài như một người hoàn toàn thoát khỏi những sự việc của thế giới này. Dù công việc có ngập đầu, khi được mời giải tội giữa lúc bận bịu, ngài không tỏ ra khó chịu, không nói hãy trở lại sau, không nói hãy đến với một cha khác, nhưng hoãn ngay công việc, khiêm tốn phục vụ linh hồn đó. Thông thường khi đến giờ giải tội, ngài bỏ hết mọi sự và mọi người: chẳng có gì đối với ngài quan trọng hơn. Đó là mà ngài làm mỗi chiều thứ bảy, mỗi ngày áp lễ và mọi buổi sáng trước khi và trong thánh lễ của cộng đoàn. Ngài ngồi liên tục nhiều giờ trong toà giải tội, hoàn toàn tập trung vào tác vụ thánh, không một chút uể oải hay tạm dừng vì một lý do con người nào. Không tạm ngừng ngay cả khi sự thuận tiện xem chừng có thể làm như thế. Đúng là không thể tranh luận được: đối với các thánh không có công chuyện trần gian nào có thể ưu thế hơn những việc trên trời.

Một buổi sáng Chúa nhật, ngài bá tước Patrizi, người Roma, một vị khách rất được mong đợi, đến Nguyện xá. Một số bề trên tìm cách đón tiếp ông cách tốt nhất vì Don Bosco đang bận giải tội cho các thiếu niên. Người ta báo cho ngài hay, ngài bình thản trả lời: “Tốt lắm! Xin nói với ông ấy rằng cha rất sung sướng vì ông đã tới và xin ông đợi một chút cho tới khi cha giải tội cho đám trẻ đáng thương này xong nhé, vì đám trẻ này ao ước được rước lễ”. Cái một chút đó kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ.

Nhận xét thứ hai là sự chịu đựng của ngài. Một khi đã ngồi vào toà giải tội, ngài chịu mọi sự bất tiện, mọi khó chịu và những đau khổ. Chịu đựng sự mệt mỏi: sau những ngày làm việc vất vả, hầu như không cảm thấy cần nghỉ, ngài đóng đinh mình tại đó cho tới bao lâu hối nhân còn đến với ngài. Chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết: trước khi có lò sưởi, ngài chịu đựng không than thở mùa đông khắc nghiệt ở Torino mãi cho tới mười giờ, mười một giờ đêm.

Chịu đựng muỗi tấn công khi ở Liguria: cứ để cho chúng chích, khi xong xuôi đứng dậy trên trán và cánh tay ngài đầy những vết chích. Ngài còn chịu đựng những điều tệ hại hơn: đám trẻ em nghèo khổ của nguyện xá lúc đó không chỉ mang tội theo mình; nhiều lần sau khi giải tội Don Bosco phải làm việc nhiều hơn vì những trục trặc nho nhỏ đủ mọi loại: ngài đã nhắn nhủ trước nhiều lần, nhưng ngài chẳng bận tâm vì điều đó, bởi vì ngài luôn để tâm chăm sóc cho các tâm hồn đáng thương đó.

Thế còn việc giải tội trong tù thì sao? Các trại tù thời đó tệ hơn thời nay nhiều xét về sự thoáng mát và tiện nghi. Don Bosco, do có sự nhậy cảm rất mạnh, trong môi trường hôi hám đó dường như phải nhắm mắt và bịt mũi lại. Chăm chú chữa lành những vết thương thiêng liêng của đám trẻ bất hạnh, ngài như không có giờ đâu mà nghĩ tới những sự chống cưỡng mà các giác quan làm phát sinh. Nói tóm lại sau tất cả những gì đã nói cho tới đây, sao người ta lại quên được lời của Đức Pio X trong thông điệp ngày 11 thang Sáu năm 1905 gởi cho các giám mục Italia khi ngài xác quyết mạnh mẽ rằng, nơi đâu thiếu đời sống nội tâm, sẽ thiếu sức mạnh để chịu đựng một cách bền bỉ những khó nhọc do bất kỳ việc tông đồ nào?


Chú thích

68 Luc 6, 19.

69 L. c., p. 161.

70 L. c., pp. 136-7.

71 G.B. Francesia, Don Bosco amico delle anime, pp. 222-26. S. Benigno Canavese, Sc. tip. Sal. 1908.

Chương IX. Những đối kháng mọi mặtChương XI. Nhà giảng thuyết