Chương XX. Viên ngọc của hàng tư tế

Một tác giả người Đan mạch khi tìm hiểu và viết về cuộc đời Don Bosco, đã nói lên ấn tượng rằng, tất cả các người viết tiểu sử trước đây cũng đã tỏ ra, nhưng chỉ ông ta là người đã diễn tả một cách độc đáo.174 Ông viết: “Don Bosco là một trong những con người toàn hảo mà trái đất này có thể có. Trong phần đa các vị mà Giáo hội tôn phong hào quang các thánh, luôn có cái gì đó con người, và trong một số trường hợp nào đó, như nơi thánh Ambrogio, thậm chí rất là con người […]. Nơi Don Bosco không có hay hầu như không có chút gì những thứ đó. Nơi ngài, tất cả là sáng tỏ, không chút bóng tối, điều đó, từ một nhãn quan nghệ thuật, tạo nên một khó khăn. Thật vậy, tất cả bức tranh sẽ phải vẽ bằng mầu trắng, tất cả bằng ánh sáng. Lời Phúc âm, các người công chính, sẽ chiếu sáng như mặt trời. Nhưng ai có thể vẽ được mặt trời chứ?”. Vậy mà dựa trên cái nền của sự trong trắng vô tội đó Don Bosco đã xây dựng nên toà nhà thánh thiện linh mục của ngài.

Đây chính là đặc điểm của sự thánh thiện của Don Bosco; bởi vì, ngay cả trước khi làm linh mục, ngài đã khao khát trở thành linh mục và sự khao khát đó đã tạo nên một nét riêng biệt cho suốt cả đời ngài, từ lúc năm tuổi cho tới năm hai mươi sáu tuổi. Khi nào ý nghĩ trở thành linh mục xuất hiện trong tâm trí ngài, thật khó mà xác định được: dường như nó đi theo con người ngài, ngài đã biểu lộ nó ra ngay khi vừa có thể hiểu linh mục là ai và làm gì. Từ giây phút đó lý tưởng linh mục chiếm lĩnh ngài, ghi khắc trên cách sống của ngài cung cách linh mục.

Chúng ta bỏ qua tác động của các nghi lễ phụng vụ, hiện tượng thường thấy nơi các trẻ em của các gia đình Kitô hữu; tôi muốn nói tới việc tông đồ mà cậu bé Bosco đã bắt đầu thực thi từ lúc nhỏ xíu trong những hình thức đúng là do lòng nhiệt thành linh mục. Tất cả đều rõ như thế. Khi trở thành một tư giáo, thầy quan tâm để tẩy xoá khỏi mình tất cả thói quen nào dù chỉ mang dáng vẻ trần tục, từ bỏ kéo violon, một nhạc cụ thầy ưa thích, từ bỏ việc tìm kiếm và từ bỏ cả việc đọc các tác giả ngoại giáo cổ điển, hiến thân cho việc học hỏi thánh, cho việc dạy giáo ý và các cử hành phụng tự, như thế chuẩn bị mình lãnh chức linh mục, và sau khi được đặt tay và lãnh nhận ơn bí tích, ngài rung động hơn trước kia nữa vì những gì là chân thật, những gì là danh thơm tiếng tốt, những gì là chân chính, những gì là thánh thiện, những gì là đáng mến, như bài đọc trích của thánh Phaolô trong thánh lễ kính ngài.175 Bởi thế, Don Bosco muốn trở nên và đã trở nên thật sự là linh mục trong cách sống và trong lời nói, trong hành động và trong cầu nguyện.

Ở đây không trình bày sự mẫu mực linh mục của Don Bosco trong việc thực thi các nhân đức: việc phong thánh đã bảo đảm điều đó, rằng ngài đã thực thi ở mức độ anh hùng. Lúc này chúng ta giới hạn trong việc làm nổi bật quan niệm của ngài về sự gương mẫu mà phẩm chức linh mục phải có. Tôi có thể nói ngài đã làm điều này  trong một hình thức độc đáo và duy nhất vào năm 1866. Khi chính quyền của nước Ý mới còn đang ở tại Firenze, ông thủ tướng mời ngài tham gia cơ quan trung gian tại toà thánh với Đức Pio IX để giải quyết một số vấn đề khó khăn. Vị thánh, trong nỗi hy vọng có thể phục vụ Giáo hội, chấp nhận lời mời; nhưng khi trình diện ông thủ tướng, biết được mình đang tiếp xúc với ai, nên trước khi đi vào trong công việc, ngài không sợ tuyên bố với ông việc rút lui: “Thưa ngài, xin biết cho rằng Don Bosco là linh mục khi ở bàn thờ, là linh mục khi giải tội, là linh mục giữa các thanh thiếu niên, là linh mục ở Torino, và cũng là linh mục ở Firenze nữa, là linh mục tại nhà của người nghèo, cũng như là linh mục tại dinh thự của vua và các bộ”.

Ngạc nhiên nhìn thấy và nghe ngài nói! Ngài có thói quen nói chậm rãi, với một sự nghiêm chỉnh dịu dàng, mỗi lời đều có trọng lượng của nó; và lần này cũng thế. Chúng ta không tưởng tượng được sự ngạc nhiên của ông bộ trưởng, ông vội vàng trấn an ngài. Nếu như ông ta đã nhục mạ ngài, thì chắc là Don Bosco với sự chân thành và đơn sơ của mình sẽ trả lời ông, như ngài đã trả lời người khác: “Xem ra ngài ngạc nhiên vì lời tôi, đó là vì ngài chưa bao giờ có dịp nói chuyện với một linh mục công giáo”.

Linh mục, theo như một khẩu hiệu mà Don Bosco thường hay lập lại, luôn luôn luôn là linh mục, và điều này phải được tỏ ra trong mọi hoàn cảnh. Sáu năm sau khi chịu chức, trong số các kỷ niệm tuần phòng, ngài ghi lại một câu của thánh Gioan Crisostomo: “Linh mục là người lính chiến của Đức Kitô”. Và ở điểm này, người lính luôn là người lính, tức là luôn sẵn sàng phục vụ.

Một ý niệm khác mà Don Bosco có về chức linh mục có thể được rút ra từ những diễn tả của ngài. Luôn trong sự khiêm nhường ngài vui nhận những dấu hiệu danh dự mà ngài nhận được từ khắp mọi nơi, cả từ những đám đông dân chúng trong các cuộc hành trình của ngài. Tại sao? Ngài nói: bởi vì những bày tỏ đó không hướng tới cá nhân, nhưng tới dấu ấn  linh mục và do đó hướng tới Giáo hội và đức tin.

Một ngày nọ, ngài là khách của một gia đình qúi tộc Torino, khi nghe người ta ca tụng, ngài để mặc họ nói và sau đó ngài trả lời: “Tôi hài lòng vì thấy người ta qúi trọng chức linh mục, vì những gì người ta nói tốt về linh mục, tức là về phẩm chức và về đức hạnh của linh mục, những điều mà linh mục phải có, và người ta sẽ không bao giờ nói cho đủ”. Lần khác ngài bộc phát tâm tình của mình. Vào trong một nữ tu viện cùng với một linh mục bạn, sau khi thầm đọc kinh: Lạy Chúa, xin gìn giữ tâm hồn và thân xác con trong sạch trước mặt Chúa, để con không bị ngã qụy, ngài nói với cha bạn: “Anh thấy không, một linh mục trung tín với ơn gọi là một thiên thần, và người không như thế sẽ là gì nhỉ? Người ấy trở thành một kẻ khốn khổ và bị khinh bỉ đối với mọi người”. Bởi thế, là tự nhiên khi ngài tôn kính nơi người khác phẩm chức linh mục; thật vậy đối với các linh mục ngài tỏ dấu kính trọng và khi biết có ai không kính trọng họ, ngài đau đớn tới rơi nước mắt và muốn dấu kẻ đó khỏi mắt mọi người. Với biết bao tình bác ái ngài đã nhận để tái ổn định cho những linh mục bất hạnh mà các giám mục gởi gắm ngài! Chúng ta sẽ nói tới điều này sau.

Qủa là đáng tiếc nếu người ta không thu thập được đầy đủ những bài giảng của ngài cho các linh mục trong các tuần phòng. Sắp xếp lại từ một ít những bài tóm còn sót lại, người ta đoán ra được sự hiệu lực, bởi vì ngài phải nói từ sự tràn đầy của tâm hồn. Một lần khi trò chuyện với một linh mục, ngài thốt lên: “Tôi rất hài lòng vì là một linh mục!”. Ngài nói điều đó, bởi vì ngài nghĩ một cách khiêm tốn rằng bậc sống linh mục mà ngài ôm ấp, ngài đã có thể gìn giữ được nó trong giai đoạn đầy khó khăn đối kháng;176 nhưng là linh mục tạo nên trong ngài một sự luôn luôn mãn nguyện, như thể đó là danh hiệu danh dự lớn nhất của ngài, cái danh hiệu mà ngài không bao giờ bỏ quên trong các cuốn sách, trong thư từ, điều mà lúc đó không phải là thông lệ.

Ai là người mang tính linh mục hơn ngài khi nói năng? Chúng ta có thể với sự chắc chắn luân lý cho rằng Don Bosco không phải tính sổ với Thiên Chúa về những lời nói vô bổ. Về Don Bosco nhà giảng thuyết chúng ta đã nói khá nhiều trong chương mười hai; về những đề tài khác được bàn trong các chương mười ba và mười sáu. Nhưng tình yêu linh mục đối với các linh hồn, điều ngài tỏ ra nơi tòa giảng, trong phòng và trong sân chơi, ngài luôn có ở bất cứ nơi đâu.

Trong nhà cũng như khi ở ngoài, khi làm việc hay tham dự các cuộc nói chuyện vui vẻ, các người ở quanh đều cảm thấy sự hiện diện của người linh mục, thường xuyên nghĩ về Thiên Chúa và sự vĩnh cửu, bởi vì biết mình phải là muối và ánh sáng.177 Tại Pháp, một bá tước hiểu được điều đó, đứng trước một vòng những người qúi phái, ông không kìm được khỏi thốt lên: Don Bosco prêtre toujours. Các tư giáo trẻ và các linh mục của Nguyện xá hiểu được giá trị của những lời của ngài, họ không chỉ trân trọng, nhưng còn ghi lại chúng trong các cuốn tập, một số đã đến được với chúng ta.

Về hoạt động linh mục của ngài tôi dã trình bày khá nhiều; tuy nhiên thêm một vài nhận định khác có lẽ không là qúa. Lời tuyên bố trích dẫn bên trên trình bày cho chúng ta hoạt động đó. “Linh mục khi ở bàn thờ”. Chúng ta đã thấy ngài cử hành thánh lễ như một thiên thần sốt mến. “Linh mục khi giải tội”. Ngài cảm thấy là linh mục nhất là khi tái sinh các linh hồn trong ân sủng; cái gì đã làm nảy sinh nơi ngài tâm tình này, một ít trang trong chương mười đã nói cho chúng ta tạm đủ. “Linh mục khi ở giữa thanh thiếu niên”. Ngài yêu mến các thanh thiếu niên của ngài biết chừng nào! Ngài thú nhận trong lời tựa cuốn Người thanh niên biết dự phòng: “Chỉ cần các con là người trẻ, đó là lý do cha yêu mến các con”. Ngài yêu mến chúng như là một linh mục. Cũng trong cuốn sách đó ngài thêm: “Các con khó tìm được ai yêu các con hơn cha trong Chúa Giêsu Kitô”. Và ngài chứng tỏ điều đó như là linh mục, không miễn chước cho mình những mệt nhọc, đau khổ và hy sinh đủ mọi loại và trong mọi lúc vì lợi ích linh hồn chúng. Ngài cư xử với chúng như là linh mục.

Phương châm mà ngài luôn giảng và thực hành là phải làm sao đừng bao giờ để một thiếu niên gặp chúng ta khi ra về không hài lòng. Ngài nói với chúng như là linh mục. Cứu rỗi linh hồn chính là cốt lõi của các cuộc nói chuyện chung cũng như riêng tư. Đó chính là lời đầu tiên khi ngài tiếp nhận một học sinh, là lời cuối cùng khi chia tay em, lời tìm được nơi ngài sự hiện thực.

“Linh mục khi ở Firenze cũng như khi ở Torino”. Nghĩa là ở bất cứ nơi đâu, trong mọi hoàn cảnh. Trong các hành trình của ngài trong nước Ý, Pháp và Tây Ban Nha, sự thán phục chung của dân chúng đối với ngài như người làm cac phép lạ không lấn át sự kính trọng ngài như là một linh mục thánh thiện, điều mà dân chúng cũng nhận ra khi lại gần ngài; bởi thế họ kéo nhau tới để dự thánh lễ ngài cử hành, để nghe lời ngài nói, để giải bày lương tâm cho ngài. Năm 1833 khi từ Paris trở về, ngài nói rằng đã phải giải quyết rất nhiều trường hợp, từng trường hợp cũng đáng để thực hiện cuộc hành trình đó.

“Linh mục với người nghèo”. Cũng như Chúa Giêsu ưu ái hơn đối với những người nghèo và giữa đám con cái của người dân nghèo giống như Ngài, ngài chọn các môn đệ. Thế thì ai lại không biết, nói về Don Bosco là nói về giới trẻ nghèo sao? Khi kể lại rằng chẳng có em nào thiếu thốn mà khi tới với ngài lại không nhận được giúp đỡ nào đó, nhà viết sử kết luận với một câu ý vị: “Don Bosco nghèo như thế, nhưng lại quảng đại như một ông vua”. Trong các dấu hiệu về sứ mệnh của mình, Đấng thiên sai chỉ ra: tin mừng được rao giảng cho người nghèo khó; người linh mục là linh mục hơn khi theo sát gương mẫu thần linh khi rao giảng tin mừng cho người nghèo.178

Là linh mục đối với những người có thế gía. Tôi xin được tóm lại câu theo sau câu nói về người nghèo trong lời tuyên bố tại Firenze để bao gồm những gì ngài diễn tả và những gì được hiểu ngầm trong đó. Câu nói lúc đó không xác định phân loại. Nhưng giữa người nghèo và các vua chúa, không chỉ có các bộ trưởng; có chỗ cho cả các người lớp người khác nữa, chẳng hạn như người giàu có và những người học thức. Don Bosco quen với nhiều người giầu về của cải cũng như kiến thức. Tại cửa nhà những người giàu có, ngài gõ cửa, gõ cửa không ngừng. Ngài nhận được rất nhiều. Có lòng biết ơn sâu xa, nhưng trong tư cách linh mục, nghĩa là ngài không là kẻ quỵ lụy kẻ có tiền. Thật vậy, ngài theo nguyên tắc này: “Chúng ta cũng làm việc bác ái cho người giầu nữa, giúp họ tuân giữ luật Chúa điều gì dư thừa, thì hãy đem mà bố thí.179

Đối với những người giầu có bủn xỉn nô lệ cho của cải chính ngài cũng cho họ của bố thí thiêng liêng qúi giá. Đên độ một ông Do thái giàu có kia, vốn ao ước được biết Don Bosco và đã được toại nguyện, khi ra khỏi Nguyện xá ông nói rằng, nếu trong mỗi thành phố mà có được một Don Bosco, thì tất cả thế giới này sẽ hối cải. Một ông Do thái giàu có khác nói với hội các rabbin rằng ông đã hai lần ở chỗ Don Bosco và sẽ không trở lại đó lần thứ ba, bởi vì có lẽ phải ở lại đó với ngài. Từ hai nhận xét này, dễ dàng thấy rằng cả hai đều nhìn Don Bosco không chỉ nơi tấm áo, nhưng còn nơi tâm hồn linh mục.

Nếu ngài không nịnh bợ những người giầu, thì với những người học thức ngài cũng không phục lụy họ. Ngài cũng có kiến thức của mình, đó là hiểu biết Kinh thánh mà vốn phải là kho kiến thức của các thừa tác viên thánh, và ngài phân phát cho kẻ muốn cũng như cho kẻ không muốn. Một luật sư ngoại quốc nổi tiếng kia, một người tài giỏi khi bảo vệ quyền lợi của Giáo hội, sau khi tìm được lý lẽ từ Thánh vịnh về hoạt động bảo vệ Giáo hội của mình, ông cảm thấy bị chất vấn bởi câu hỏi này của Don Bosco: “Thưa ngài, đạo giáo mà ngài đang bênh đỡ một cách đáng tôn vinh, ngài cũng thực hành chứ?”. Người kia cảm thấy lúng túng, tìm cách thay đổi đề tài, nhưng Don Bosco cầm chặt lấy tay ông và nài ép: “Đừng trốn chạy, xin hãy trả lời: đạo giáo mà một cách công khai ông bảo vệ rất tốt đó, ông cũng thực hành chứ?”. Qủa là cú đánh động do ân sủng cho người đối thoại, vì ông này hầu như không còn tin ở bí tích giải tội nữa.

Sau bữa ăn khi chia tay ra về với một gia đình qúi phái kia, Don Bosco trước đó đã nói với từng người những lời tốt lành, trừ ra với một vị tướng, cũng là khách mời như ngài. Là một người có học, nhưng dửng dưng trong vấn đề đức tin, vị tướng già kia cũng xin ngài vài lời để làm kỷ niệm cuộc gặp gỡ vui vẻ hôm ấy. Vị đầy tớ Chúa nói: “Xin hãy cầu nguyện cho tôi, thưa ngài đại tướng, xin hãy cầu nguyện để Don Bosco nghèo khổ này được cứu rỗi linh hồn”. Ông tướng kia liền trả lời: “Sao lại thế, tôi mà lại cầu nguyện cho cha à! Tốt hơn, cha nên gợi ý cho tôi một lời khuyên tốt”. Don Bosco yên lặng một lát như thể để tập trung tư tưởng, rồi ngài trả lời trong một sự xác quyết rất bình thản: “Thưa ngài đại tướng, ngài hãy biết rằng ngài còn phải chiến đấu một trận lớn nữa; nếu ngài thắng, tất cả đều sẽ may mắn… Đó là trận chiến vì phần rỗi linh hồn”. Các người có mặt đều sửng sốt; nhưng vị tướng đó kêu lên rằng chỉ mình Don Bosco mới dám nói một cách chân thành như thế.

Cuộc đàm thoại của ngài với vị công tước bảy mươi tuổi Cibrario, một nhà viết sử theo phái tự do khá nổi tiếng và là một bộ trưởng, làm chúng ta cảm động. Cuộc đối thoại kết thúc với những lời đầy tính linh mục: “Thưa ngài công tước, ngài biết rằng tôi rất qúy mến ngài, tôi nuôi một sự kính trọng đặc biệt đối với ngài. Như ngài nói, cuộc sống ngài không thể kéo dài lâu nữa, xin ngài trước khi chết có một vài chỉnh đốn trước mặt Hội thánh”.

Ở Paris, Paolô Bert tới thăm ngài, ông đã là bộ trưởng bộ giáo dục, ngài chuyển sang nói về đời sống vĩnh cửu và từ từ dẫn ông duyệt xét lại lập tức một cuốn sách của ông về luân lý cho các trường học, trong đó có những câu ông viết hơi qúa đáng. Cũng ở Paris, cuộc đối thoại với Victor Hugo mang đầy kịch tính! Chúng ta có bản văn, soạn thảo theo lời kể của Don Bosco và ngài đã xem lại. Khi vào cuộc đối thoại nhà văn lãng mạn nổi tiếng này có những tư tưởng hoàn toàn khác, sau cuộc đối thoại đầy suy tư về mầu nhiệm cõi bên kia nấm mồ.

Don Bosco đã làm nhiều chuyện với các người có quyền hành. Kính trọng quyền bính, nhưng khi tiếp xúc với họ, ngài không để quên quyền linh mục của mình. Ông bộ trưởng Urbano Rattazzi đã nghiệm được điều đó một lần khi hỏi ngài liệu ông có lãnh vạ tuyệt thông do những hành vi của cầm quyền không, sau đó ba ngày ông nhận được câu trả lời sau: “Tôi đã xem xét câu hỏi, tôi đã tìm kiếm, đã nghiên cứu để có thể thưa với ngài là không mắc vạ, nhưng tôi đã không thành công làm việc này”. Người hãnh diện chủ trương tự do kia tỏ lòng cám ơn ngài về câu trả lời, tuyên bố với ngài rằng ông ủng hộ ngài, vì ông thấy sự rõ ràng của ngài.

Năm 1874 tại Roma, từ văn phòng của bộ trưởng bộ nội vụ đi ra, ngài thổ lộ với một người thân tín rằng ngài đã thưa những khó khăn với ngài bộ trưởng, và không phải là không có kết qủa. Hai năm sau tại Lanzo Torino khi khánh thành đường sắt, trường Salêdiêng được chọn làm nơi tiếp đón chính quyền. Hôm đó có ba bộ trưởng danh tiếng và nhiều nghị viên và đại biểu, tất cả đều là những người có tiếng theo chủ trương tự do. Don Bosco cũng có mặt. Trong giờ giải lao thư giãn khá dài, ngài từ từ trở thành trung tâm của cuộc trao đổi; nhờ điều này ngài lèo lái cuộc tán dóc của quí ông đó sang những suy tư hữu ích, những suy tư về tôn giáo mà họ từ lâu rồi không được nghe.

Nhưng ngay cả đối với những người còn có quyền chức hay đã hết, Don Bosco trong những năm trước đó, cũng không ngần ngại cho họ những chân lý cứu độ. Đối với triều đình Napoli, đang bị lưu đầy tại Roma, nhắc tới những lỗi lầm mà những chức bậc của họ đã gây ra cho Giáo hội, ngài khuyên họ hãy sống phó thác, vì chương trình của Chúa Quan phòng không phải là điều họ ao ước.

Trước đó nữa, sự qúi mến và tôn kính đối với các vua Sabaudi đã không ngăn được ngài lên tiếng để kéo nhà vua ra khỏi những bước sai lầm. Không may việc đó không có kết qủa; nhưng sau đó vua Vittorio Emanuele nói với đức tổng giám mục Genova, người trước đó đã làm thầy giáo trong triều đình, rằng ông tỏ lòng kính trọng sự chân thành linh mục của ngài và nói rằng Don Bosco quả thật là một linh mục thánh thiện. Như thế Don Bosco tuân thủ lời dạy của thánh Phaolô: hãy trả cho mỗi người điều thuộc về họ… sự kính trọng, đối với người phải kính trọng,180 ngài không bao giờ nói một lời bất kính, và muốn các con cái ngài phải kính trọng quyền bính được thiết lập; nhưng về những điều phải phê phán thời cuộc, ngài luôn đứng trong phẩm cách linh mục.

Nếu Don Bosco là linh mục với tất cả mọi người, thì ngài cũng là linh mục đối với các bề trên và anh em trong chức linh mục. Ngài là linh mục với Đức thánh cha. Cách xử sự của ngài đối với vị Đại diện Chúa Kitô không thể nào phù hợp hơn nữa. Ngài vạch ra chương trình của mình như sau: “Yêu mến Đức thánh cha, tất cả cùng vời Đức thánh cha, vì Đức thánh cha”. Từ tiền đề này, các hệ lụy xuất phát cách tự nhiên. Ví dụ đối với thanh thiếu niên: “Khi các con thấy một tác giả viết không tốt về Đức thánh cha, các con hãy biết rằng cuốn sách đó không nên đọc”. Một hệ luỵ khác đối với một số người chất vấn ngài về sự sát nhập bằng bạo lực các tỉnh tại Roma: “Như là một công dân, tôi sẵn sàng bảo vệ tổ quốc ngay cả đến độ hy sinh mạng sống; nhưng như một Kitô hữu và một linh mục, tôi không bao giờ chấp thuận điều này”.

Đức giám mục Manacorda thuộc vùng Fossano, một người biết rõ Don Bosco, làm chứng trong diễn văn tang lễ: “Trong số các người đến gần ngài, chẳng có ai nghe thấy một lời nào của ngài mà không đượm vẻ dễ dạy như của một đứa trẻ ngây thơ đối với Đức thánh cha”. Chúng ta đã đề cập đến những tuyên bố của ngài về điều này trên giường chết.

Là linh mục đối với các giám mục. Ngài tôn kính nơi các vị và làm cho người ta tôn kính sự tròn đầy của chức linh mục. Những bằng chứng sáng ngời về sự tôn kính mà ngài tỏ ra cho các vị mục tử của Giáo hội bị bách hại: Đức tổng giám mục Torino, Fransoni trong thời kỳ bị cầm tù và lưu đầy; đức hồng y De Angelis, giám mục Fermo; và giám mục Guastalla, Rota bị kết án cưỡng bách giam tại gia ở Torino. Don Bosco coi việc tiếp đón một giám mục trong Nguyện xá được là một sự may lành. Ngài loan báo, ngài đón tại cổng, ngài giới thiệu cho các thanh thiếu niên, ngài đi theo giám mục với đầy sự chăm chú. Trong sắc lệnh công bố nhân đức anh hùng có một mục nhỏ ngắn ám chỉ về những khó khăn xảy ra giữa Don Bosco và tổng giám mục Gastaldi: lịch sử cho thấy ngay cả trong hoàn cảnh không thể tin nổi đó, ngài vẫn tỏ ra mình là linh mục đối với giám mục của mình.

Là linh mục đối với các linh mục. Phẩm vị linh mục được kính trọng ngay nơi bản thân ngài, ngài cũng kính trọng nó nơi những người khác. Biết bao sự thân tình đã luôn luôn có giữa các linh mục của Nguyện xá! Nhưng Don Bosco không bao giờ quên mình là linh mục cùng với họ, không bao giờ quên nhìn đến các linh hồn. Trên môi ngài thỉnh thoảng bộc phát tùy theo trường hợp những phương châm khác nhau: “Linh mục phải khao khát phần rỗi các linh hồn, nhưng trước hết phải lo cứu lấy linh hồn của chính mình… Một linh mục không bao giờ lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình… Đang khi cứu rỗi, hãy cứu chính con”.

Bao nhiêu kính trọng ngài tỏ ra trong tương quan đối với các cha xứ! Nhưng ngài đau khổ biết bao khi nghe có linh mục nào đó làm ô danh chức thánh của mình! Ngài không thất vọng để mình kêu than cách vô ích. Với đức ái tế nhị, khi thì dùng sáng kiến riêng, khi thì do sự gởi gắm của các đức giám mục, ngài dấn mình vào để tái ổn định họ, khuyên nhủ họ, trao đổi với họ lâu giờ, giúp đỡ tiền bạc, tiếp nhận họ ở với ngài trong một thời gian nào đó. Một cách thánh thiện ngài còn đi tìm kiếm các linh mục hay linh mục đã xuất đang đi theo con đường chính trị hay chống đức thánh cha với mục đích duy nhất là giúp họ suy nghĩ lại. Linh mục dòng tên và là nhà thần học nổi tiếng tên Passaglia, đã hồi tục, nói rằng Don Bosco có tất cả mọi đặc sủng của Thánh Thần ban, ông tránh gặp Don Bosco vì sợ bị ngài đánh bại.181 Ngài đã hy vọng hoán cải cả vị cựu kinh sĩ Gioberti. Ngài cùng với nhà thần học Borel đã tới thăm ông, ngài hỏi thăm chuyện linh hồn, đi vào vấn đề nhức nhối; nhưng toan tính bác ái và mục tử đó thất bại đứng trước sự cao ngạo của con người.182 Nhưng ngài đã đưa một số linh mục lạc đường trở về với phẩm chức linh mục. Về lòng nhiệt thành của ngài trong việc đào tạo các linh mục chúng ta đã đề cập tới rồi.

Cả hoạt động viết lách phong phú của ngài cũng thuộc về hoạt động linh mục: vấn đề đã nói trong chương mười hai. Tôi trình bày ở đây một nguyên tắc viết của ngài, để chúng ta thấy cảm thức linh mục của ngài tế nhị biết bao khi viết. Cắt nghĩa cho các Salêdiêng về cuốn Lịch sử Giáo hội của ngài, ngài nói: “Cha không viết cho các người học thức, nhưng cho dân chúng và cho các thiếu niên. Nếu khi thuật lại một sự kiện không tốt và đối kháng, cha gây nên xáo động cho đức tin của các linh hồn đơn sơ, thì không phải là dẫn họ vào chỗ sai lầm sao? Nếu cha trình bày cho một tâm trí ít học khuyết điểm của một dòng tu, không phải là cha đã làm nảy sinh nơi người ấy những nghi vấn đối với toàn thể cộng đoàn đó sao? Vậy thì đó không phải là sai lầm sao? Chỉ có người nhìn tất cả lịch sử hai ngàn năm, mới có thể thấy rằng tội lỗi ngay cả của những con người thế giá nhất không hề làm lu mờ sự thánh thiện của Giáo hội, nhưng là bằng chứng cho thấy tính cách thần linh của nó… Trong cái tuổi mỏng dòn, những ấn tượng nhận được do những lời nói bất cẩn thường mang tới những hậu quả đáng than khóc về đức tin và về đức hạnh”.

Vị thánh thiên thần nói rằng ai làm những việc của Chúa Kitô thì phải luôn ở cùng Đức Kitô. Không ngờ gì đó là một nguyên tắc tuyệt hảo của nghệ thuật tôn giáo; nhưng còn là luật căn bản hơn nữa cho thừa tác vụ linh mục, tức là, ai muốn hình thành Đức Kitô trong các tâm hồn, thì người ấy phải sống thường hằng với Đức Kitô.183 Don Bosco có lẽ qủa là một sự bí ẩn lớn, nếu chúng ta nghi ngờ rằng sự hiệu lực kỳ diệu trong chức linh mục của ngài đến từ một nguồn khác không phải là sự kết hiệp cuộc sống với Đức Giêsu Kitô, Đấng mà ngài muốn và đã là một thừa tác trung thành.

Rồi cũng có người, ấn tượng vì khối lượng khổng lồ biết bao công việc mà Don Bosco đã làm, nên đã thưa với Đức Pio XI rằng khi nào Don Bosco có thể kiếm ra giờ để hồi tâm cầu nguyện; nhưng Đức thánh cha là người biết rõ Don Bosco, trả lời một cách sâu sắc rằng tốt hơn đừng nên tìm khi nào Don Bosco cầu nguyện, nhưng nên tìm xem khi nào ngài không cầu nguyện. Nếu muốn nói rằng ngài không dành lâu giờ để nguyện ngắm như các thánh khác, thì điều này đúng; nhưng cũng đúng điều thánh Têrêsa nhắn nhủ: “Hãy tin tôi, không phải cầu nguyện lâu giờ làm linh hồn tiến bộ; nếu như dành nhiều giờ cho những việc bác ái hoặc vì vâng lời, tình yêu của người đó sẽ bừng cháy lên trong chỉ ít phút, hơn là sau nhiều giờ nguyện ngắm. Tất cả phải xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa”.184

Tới đây phải nói tới điểm thứ tư, việc cầu nguyện; thế nhưng điều này đã được nói không biết bao nhiêu lần trong cuốn sách này. Dầu vậy tôi mong muốn nhấn mạnh trên tính chất độc đáo mà nhiều lần đã nói tới trong cách cầu nguyện của ngài. Thực ra nét độc đáo này không phải là của riêng ngài, nó đã có trong truyền thống giáo lý và thực hành cổ xưa. Chẳng hạn như, suy tư của thánh Grêgorio Cả, ngài đã viết nhiều trang rất thâm sâu về sự chiêm niệm phải gắn liền với tình yêu hoạt động.185 Một đoạn văn viết ra đúng là cho chúng ta, trong đó ngài nói: “Đức ái của chúng ta phải được thiêu đốt bởi tình yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân, làm sao để sự yên hàn của chiêm niệm về tình yêu Thiên Chúa không làm tâm trí chúng ta quên lãng đức ái đối với tha nhân, và cũng không muốn bận tâm phục vụ tới độ làm tàn lụi trong mình ngọn lửa của tình yêu vĩnh cửu đó”. Don Bosco đã sống như thế: nơi ngài hoạt động hăng say không tách rời khỏi sự chiêm niệm mãnh liệt.

Bởi thế, ngài thực hiện nơi mình cách tuyệt hảo tình trạng được thánh Bernardo diễn tả khi ngài kết luận rằng sự chiêm niệm phải thu tư tưởng, tình yêu và năng lực về một mối, và do sự tràn đầy nó phải biến thành hành động. Tất cả những điều này phù hợp với nhận định của một tác giả tu đức hiện vẫn còn sống, ông này nhận ra nơi Don Bosco “một sự thống nhất hoá giữa cầu nguyện và chiêm niệm”, đến nỗi rằng có thể đuợc gọi là “một sự chiêm niệm hoạt động”.186

Ý tưởng về sự thánh thiện linh mục của Don Bosco chiếm lĩnh tâm trí của Đức Pio XI, khi ngài nói chuyện với một nhóm đông đảo các chủng sinh: “Năm thánh kết thúc với hình ảnh của một linh mục vĩ đại, người có một ý thức hoạt động chân chính, rằng mình là dụng cụ của ơn cứu độ, đặc biệt cho giới trẻ sống trong nguy hiểm và nghèo khổ”. Chuyển sang ý nghĩ của mình, ngài giải thích vị tân hiển thánh phải được đưa lên làm gương mẫu cho các linh mục tương lai, tức là những người đang lắng nghe ngài, như thế nào.187 Bởi thế Don Bosco là và sẽ còn là mẫu gương cho các linh mục, tiêu hao sức lực mình hằng ngày vì vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn; bởi vì ngài thực sự là một viên ngọc của hàng tư tế, như Giáo hội gọi trong thần vụ ngày lễ thánh Martino thành Tours.

Nếu Don Bosco là viên ngọc của các linh mục, điều này không có nghĩa là chỉ đối với các linh mục ngài mới được coi như mẫu gương. “Đức thánh cha của Don Bosco”188 trong rất nhiều buổi tiếp kiến chung sau cuộc phong chân phước và phong hiển thánh, khi ngỏ lời và phân phát ảnh của chân phước và tân hiển thánh cho nhiều lớp người khác nhau, ngài luôn tìm thấy một khía cạnh nào đó đặc biệt thích hợp để trình bày cho họ bắt chước. Ngài làm điều này mà không phải vận dụng suy tư biện chứng nào, nhưng với những nhận xét cụ thể tự nhiên và thực tế từ cuộc đời Don Bosco.

Sau khi rảo qua các tường trình, dường như chúng ta thấy sự thánh thiện của Don Bosco có thể nói được, là một sự thánh thiện bách khoa, nghĩa là có tính cách phổ quát. Sự hứng khởi khắp thế giới khi chào đón sự kiện nâng ngài lên bàn thờ đã chứng minh điều đó; sự tôn kính ngài phổ biến khắp mọi dân tộc và sự sùng kính ngài nơi mọi tầng lớp dân chúng cũng chứng minh điều này.

Ngài qủa thật là vị thánh của mọi người.


Chú thích

174 Giovanni Joergensen. Don Bosco. Xuất bản tiếng Ý.do D. A. Cojazzi trách nhiệm, Torino, S.E.I. 1929. p. 8.

175 Phil 4, 18.

176 Mem. Biogr., vol. III, p. 278.

177 Mat 5, 13.

178 Mt 11, 5; Lc 4, 18.

179 Lc 11, 41.

180 Rom 13, 7.

181 Mem.Biogr., vol. VII, p. 175.

182 Ivi, vol. III, p. 423 và 526.

183 Gal 4, 19; Phi 1, 21; Gal 2, 20.

184 Oeuvres complètes, bản dịch của các Carmelitane tại Paris. T. III, p. 109.

185 Mor., VI, 37 (MPL LXXV, 761).

186 Don Portaluppi, Linh đạo của Don Bosco trong “Scuola cattolica”, tháng giêng 1930.

187 Osservatore Romano, 15 tháng tư năm 1934.

188 Đang khi Đức Pio XI ngồi trên kiệu di về ngai toà phía trước bàn thánh tích trong cuộc tiếp kiến vĩ  đại ngày 3 tháng tư năm 1934, vang lên trong vương cung thánh đường lời tung hô: Hoan hô Đức thánh cha của Don Bosco. Đức thánh cha trong diễn từ của ngài, sung sướng nhớ lại tíêng chào đó, ngài nói: “Cha cảm thấy một nỗi vui sâu xa khi nghe kêu lên: Hoan hô Đức thánh cha của Don Bosco”.

Chương XIX. Trong buổi hoàng hôn yên bình