Thư số 982: Nỗ lực của Hội dòng cho nhân quyền

Không có file audio

Các chị em rất thân mến,

dịp kỷ niệm 70° năm Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền là lý do thúc đẩy mẹ chia sẻ với các chị em về một số khía cạnh của việc giáo dục các thế hệ trẻ trong lăng kính giáo dục tiên liệu, đây là điều chúng ta được mời gọi trong tư cách Hội Dòng.

Việc cử hành kỷ niệm này không chỉ là dịp để tưởng nhớ, mà là để kiểm chứng xem, nhân quyền có được tôn trọng bằng những hành động cụ thể, chứ không chỉ với những lời tuyên bố. Đây cũng là dịp để xem trên thế giới đã có một sự thay đổi đáng kể hay chưa, cũng như Hội Dòng của chúng ta ngày nay nỗ lực đến mức nào để bảo vệ các trẻ thơ, những người trẻ, các phụ nữ, vốn thường bị xâm phạm phẩm giá với các hình thức nô lệ mới. Mẹ nghĩ rằng, những người lớn biết ít về đề tài này, nhưng các thế hệ trẻ thì còn biết ít hơn nữa, dù rằng độ nhạy cảm về lĩnh vực này ngày luôn lớn mạnh.

Do đó, mẹ cho rằng, thật là quan trọng việc trình bày một cách chính yếu tiến trình lịch sử của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Kế đến là xem tài liệu này quan trọng như thế nào đối với Giáo Hội và Giáo Hội đã đảm nhận nó trong 70 năm nay ra sao. Cuối cùng là việc duyệt xét xem, bằng cách nào Hội Dòng đã liên tục nhắc nhở chúng ta về việc đặt con người ở trung tâm của hành động giáo dục, qua việc thúc giục chúng ta cổ võ và bảo vệ các quyền lợi của những người, nhất là những ai có nguy cơ bị gạt ra bên lề, bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội, như Đức Thánh Cha Phanxicô thường nhấn mạnh.

Mẹ mời các chị em, những người Con Đức Mẹ Phù Hộ, hãy cảm thấy mình được cuốn hút cùng với toàn thể cộng đoàn giáo dục, theo những khả thế riêng, để trực tiếp cộng tác cùng với Giáo hội, Gia đình Salediêng, và các tổ chức dân sự khác nhau, để đào tạo những người trẻ "nhạy cảm với các vấn đề của ngày hôm nay, có khả năng đóng góp với năng lực và tinh thần tin mừng vào việc xây dựng một xã hội đáp ứng tốt hơn cho những nguyện vọng của con người" (HL 72).

Bối cảnh lịch sử của Bản Tuyên ngôn

Năm 1948, sau thảm kịch Thế chiến thứ hai, các Quốc gia thành lập Liên Hợp Quốc vào năm 1945 hiểu rằng, "việc công nhận phẩm giá của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại và quyền lợi bình đẳng cũng như bất khả chuyển nhượng của họ là những yếu tố tạo thành nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới". Lời mở đầu của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền đã khẳng định như thế.

Ngày 10 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền ở Paris, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhân loại. Khoản thứ nhất của Tuyên ngôn khẳng định: "Tất cả mọi người đều được sinh ra tự do và bình đẳng về nhân phẩm và nhân quyền. Tất cả đều được phú ban lý trí cùng lương tâm và phải hành động theo tinh thần huynh đệ hỗ tương". Mọi người đều có tự do suy tư và diễn tả. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có thể xin tị nạn. Mọi người đều có quyền được sống, được giáo dục và xây dựng một cuộc sống xứng đáng. Tất cả: không phân biệt tôn giáo, chủng tộc và giới tính của họ, cũng như không phân biệt Quốc gia mà họ cư ngụ. Từ trước đến lúc đó, chưa bao giờ có những lời được viết lên cách rõ ràng như thế. Tuyên khôn còn khẳng định: quyền lợi và trách nhiệm nhất thiết phải liên kết với nhau.

Bản Tuyên ngôn kết thúc với việc chân nhận rằng, cá nhân không sống một mình. Trong xã hội, cá nhân phải biết hành xử và chung sống. Do đó, sự chung sống này cũng bao hàm trách nhiệm đối với những người khác.

Lần đầu tiên, một bản Tuyên ngôn quốc tế đã khẳng định sự tồn tại các quyền phổ quát của con người: những quyền có giá trị trong mọi thời đại lịch sử, ở mọi nơi trên thế giới và phải được công nhận, khẳng định, thăng tiến.

Điều đáng lưu ý là, mặc dù các nước thành viên vào thời điểm hình thành Liên Hợp Quốc có những ý thức hệ khác nhau, các hệ thống chính trị khác nhau, các tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa khác nhau, cũng như có các mô hình phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, nhưng Bản Tuyên ngôn Quốc về Nhân quyền lại được xem là bản văn tiêu biểu về mục tiêu và nguyện vọng của tất cả. Điều này cho thấy tầm nhìn chung của cộng đoàn đồng quốc tế thời đó về việc thế giới phải trở nên thế nào: một thế giới nơi thể hiện sự chung sống nhân bản là điều khả thể khi hướng đến hòa bình, sự phát triển và tôn trọng lẫn nhau.

Một bản Tuyên ngôn dựa trên phẩm giá của nhân vị

Bản Tuyên ngôn bao gồm một bộ luật rộng và chi tiết về các quyền, được chia thành 30 khoản. Tài liệu khẳng định các quyền lợi phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời, tất cả đều hướng tới việc công nhận phẩm giá của mỗi con người. Khi bàn về nhân phẩm, Tuyên ngôn không đề cập đến nguồn gốc con người, tuy nhiên, các tài liệu về nhân quyền cống hiến những chỉ dẫn quan trọng để nắm bắt nội dung của nó. Nhân phẩm được "công nhận" chứ không được “cấp ban”; không phụ thuộc vào một quyết định nhưng từ một tình trạng xác thực . Quả vậy, nhân phẩm cho thấy giá trị của nhân vị như chủ thể và cùng đích, chứ không bao giờ như phương tiện. Nhân phẩm "gắn liền" với bản thể con người và đó là lý do của sự bình đẳng giữa tất cả những người nam - nữ. Mặc dù ngoại diện cho thấy chúng ta khác biệt - mỗi người là "duy nhất và không thể lặp lại", nhưng có một mẫu số chung, đó là chúng ta hiện hữu như một nhân vị.

Mẹ không có ý định phân tích nội dung của Bản Tuyên ngôn cũng như về các Hiệp ước và Công ước ra đời sau đó, nhưng mẹ nghĩ sẽ thật thú vị để nhắc lại đây, điều mà Uỷ viên Tối cao về Nhân quyền - Zeid Ra'ad Al Hussein - đã nhấn mạnh ngày 18 tháng 6 năm 2018 trong bài phát biểu nhân dịp khai mạc phiên họp thứ 38 của Hội đồng Nhân quyền. Ông nói điều mà Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền xác quyết đó là: "sự ra đời của một thế giới mà tất cả mọi người đều được hưởng tự do ngôn luận và tín ngưỡng, cũng như tự do khỏi nỗi sợ hãi và yêu sách... là khát vọng lớn hơn cả của tất cả mọi người".

Thật đáng lo ngại việc gia tăng bạo lực và những xung đột ở nhiều quốc gia. Càng nghiêm trọng hơn khi các hành vi này lại được miễn tội: việc vi phạm nhân quyền ngày nay sẽ dẫn đến những xung khắc của ngày mai. Do đó, những dịp kỷ niệm, như của Bản Tuyên ngôn này, cũng có nhiệm vụ nhắc nhở chúng ta về những thảm họa, những tai ương có thể xảy ra khi các quyền này bị vi phạm.

Bản Tuyên ngôn là nền tảng của đời sống dân sự và có những điểm tương đồng khá rõ với giáo huấn của Chúa Giêsu. Khi nhập thể, Ngài đã làm cho con người nhận biết gương mặt đích thực của Thiên Chúa, là Đấng vốn thông dự vào những thảm kịch của nhân loại, gần gũi với mọi người và ước muốn rằng mỗi người được công nhận trong phẩm giá của mình. Trong bản văn này không nói về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu, về Giáo Hội, nhưng qua đề xuất về các quyền lợi của con người, ta bắt nhận được kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại.

Như đã đề cập, tính phổ quát của các quyền này dựa trên nguyên lý về phẩm giá của mỗi con người, với những quyền không thể chuyển nhượng vì thuộc về bản chất chung của tất cả các nhân vị. Trên cơ sở này, Lời mở đầu của Tuyên ngôn Quốc tế hòa hợp với cách hiểu của Thánh Kinh về con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, được mời gọi sống cho tình yêu huynh đệ.

Trong bài phát biểu vào đầu năm (ngày 8 tháng 1 năm 2018) với Bộ Ngoại giao, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cơ hội nhấn lại điểm tương đồng này khi Ngài gợi nhắc chính dịp kỷ niệm lần thứ 70 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.

Bối cảnh văn hóa hiện tại và nỗ lực của Giáo Hội

Nếu vào năm 1948, cộng đồng quốc tế đã long trọng tuyên bố các quyền phổ quát như nền tảng của một trật tự mới, sau những nỗi kinh hoàng của chiến tranh, hôm nay, gia sản quý giá này lại bị đưa vào tranh cãi cách nghiêm trọng, về lý thuyết lẫn thực hành.

Những sai phạm thì rất nhiều, ngay cả ở các Quốc gia đã từng ký nhận Tuyên ngôn với niềm xác tín.

Bối cảnh đa văn hóa của chúng ta thách đố tính phổ quát của những quyền ấy, và làm suy yếu khả năng để chúng tiếp tục đánh dấu chân trời chung cho việc xây dựng các xã hội của chúng ta; để chúng tiếp tục là điểm tham chiếu bắt buộc khi thi hành quyền lực chính trị; là chỉ số của một cách thức không thể thiếu cho cộng đồng quốc tế trong việc thăng tiến toàn diện nhân vị và tất cả mọi người trên thế giới.

Dẫu cho nền kinh tế toàn cầu phát triển, toàn bộ dân số vẫn còn trong đau khổ. Mô hình phát triển mà chúng ta đang theo đuổi không có đủ tính bao gồm. Trên toàn thế giới, nghèo đói đang phát triển trong các dạng thức khác nhau của nó. Nhiều dân tộc bị đói vì nhiều lý do. Trong nhiều xã hội phương Tây, chúng ta đang chứng kiến sự xuống cấp của xã hội, với sự bần cùng ngày càng gia tăng của một số lĩnh vực trong dân số, sự bấp bênh của công việc, sự giảm thiểu trong hệ thống bảo vệ các thành phần yếu kém. Bản Nhân quyền không còn được xem như một giá trị bắt buộc, và điều này dẫn tới việc phủ nhận nhân phẩm của con người, đặc biệt của những ai dễ bị tổn thương hơn cả. Trong khi đó, các quyền cá nhân riêng biệt không mang tính công bình xã hội lại được nhân gấp và tạo thuận lợi. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, nơi đâu mà mọi thứ có thể trở thành quyền, thì không có gì là quyền đúng nghĩa cả.

Các xã hội đa văn hóa của chúng ta tự xung đột vì những quan điểm khác nhau về nhân vị, một mặt là chủ nghĩa tương đối, mặt kia lại là chủ nghĩa bảo thủ. Ngay cả nền dân chủ, vốn đã là hậu thuẫn cho việc khẳng định các quyền lợi, cũng không ít lần bị đặt vấn đề, và vẫn có những vi phạm nghiêm trọng về các quyền này.

Hơn nữa, sự nhấn mạnh về các quyền lợi đã làm lu mờ phần nào tầm quan trọng của các nghĩa vụ, vốn mời gọi mỗi công dân nhận ra rằng, khuôn mặt của tha nhân chất vấn và đòi buộc họ phải tôn trọng phẩm giá và giá trị không thể chối từ của một nhân vị.

Chỉ với một nhận thức được canh tân về quyền lợi – nghĩa vụ, các quyền phổ quát mới có thể được nói đến; và nhất là, mới được thăng tiến trong sự trân trọng mỗi dân tộc, văn hóa, nhân vị.

Trong Giáo Hội, vốn kết hợp việc phúc âm hóa và thăng tiến con người, các quyền lợi của con người đã luôn được đón nhận. Trong bài phát biểu với LHQ ngày 2/10/1979, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rằng, Tài liệu này "là một viên đá quan trọng được đặt trên hành trình dài và khó khăn của nhân loại. Cần phải đo lường sự tiến bộ của nhân loại không chỉ với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ..., nhưng đồng thời và cần ưu tiên hơn nữa, là các giá trị tinh thần và sự thăng tiến của đời sống đạo đức". Cả Đức Thánh Cha Benedetto XVI, trong bài phát biểu tại Liên Hợp Quốc (18/4/2008) đã nhận xét rằng, Bản Tuyên ngôn «là kết quả của một sự hội tụ các truyền thống tôn giáo và văn hóa, tất cả đều được thúc đẩy bởi mong muốn chung là đặt con người vào trung tâm của các thể chế, luật lệ và can thiệp của xã hội; và để chân nhận con người là thiết yếu cho thế giới văn hóa, tôn giáo và khoa học».

Ngày nay, Đức Thánh Cha Phanxicô cho thấy sự tương đồng của Tuyên ngôn và nhãn quan Kitô giáo. Ngài khẳng định nền tảng của nó và cảnh báo về một nguy cơ: một tầm nhìn hạn hẹp về con người dẫn đến sự lan tràn của bất công, bất bình đẳng xã hội và tham nhũng. Trong bài diễn văn cho Bộ Ngoại Giao (8 tháng 1, 2018), Đức Thánh Cha nói: "Những quyền này có nền tảng từ bản chất của nhân vị. Chúng được xác quyết là để loại bỏ các bức tường của sự phân rẽ - vốn phân chia gia đình nhân loại, cũng như để tạo điều kiện cho điều mà Học thuyết xã hội của Giáo Hội gọi là sự phát triển nhân bản toàn diện".

Sự lưu tâm đến nhân quyền của Hội Dòng chúng ta

Như Giáo Hội và dưới ánh sáng những lời chỉ dạy của Don Bosco và của Mẹ Mazzarello, chúng ta nhận ra rằng, ở tâm điểm sứ mệnh của chúng ta có những người trẻ cùng với những chất vấn của họ về ý nghĩa và nhu cầu của cuộc sống. Khoản đầu tiên của Hiến luật nhắc nhở chúng ta về điều này, nó chỉ thị tính biệt định sứ mệnh của chúng ta: "là lời đáp trả cứu rỗi cho những thao thức thâm sâu của những người trẻ".

Ngay từ đầu, trong những bối cảnh văn hóa đa dạng và các môi trường khác nhau, giáo dục toàn diện nhân vị là lời đáp trả mà chúng ta đề xuất như một sự đóng góp của đoàn sủng Salêdiêng cho Giáo hội và xã hội.

Đặc biệt, lịch sử của các TTN cuối cùng chứng minh rằng, Hội Dòng đã luôn luôn lưu tâm gợi nhắc tính trọng tâm của nhân vị cũng như sự thăng tiến và việc bênh vực nhân quyền, khởi đi từ những người có nguy cơ bị gạt ra bên lề, bị loại trừ, bị lãng quên.

TTN XX đã nhấn mạnh sự lựa chọn của Don Bosco để tái tạo xã hội bằng cách giáo dục giới trẻ và cho thấy Mẹ Mazzarello đã không bỏ qua bất cứ điều gì để cộng đoàn của chúng ta là một cộng đoàn giáo dục, nơi mà các thanh thiếu nữ có thể cảm thấy được cùng lớn lên và được tôn trọng trong những nhu cầu tăng trưởng cơ bản của họ. Chính khi nhận thấy “nhiều vi phạm nhân quyền mà chúng ta cảm thấy được kêu gọi để cổ võ sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người”. Chúng ta nỗ lực "nghiên cứu các kênh, mà theo công luận, góp phần thăng tiến việc chân nhận các quyền con người, quyền tự lập của các dân tộc và phẩm giá của họ". Và rồi, chúng ta đã kết luận với niềm xác tín: "Chúng ta tin là phải hiện diện, với sự đơn sơ và can đảm, nơi mà người trẻ và cuộc sống muốn chúng ta, để mang Tin Mừng đến trong lịch sử».

Trong TTN XXI, chúng ta đã canh tân "nỗ lực cho việc giáo dục với sức mạnh ngôn sứ của Hệ thống Dự phòng trong giáo dục cho công lý và hòa bình", với xác tín "sống quyền công dân Tin Mừng ngày nay có nghĩa là chúng ta phải chịu trách nhiệm, một cách cá nhân và cộng đoàn, nơi có bạo lực, tham nhũng ... và nhân quyền bị từ chối". Chúng ta cũng đã tái khẳng định "sự lựa chọn giáo dục phúc âm hóa như một sứ vụ của của đặc sủng ... để bênh vực quyền lợi của tất cả, nhất là của những người trẻ và những người yếu kém hơn. Chúng ta cũng đánh giá cuộc đối thoại và các khả thế chung sống giữa các nền văn hóa, các chủng tộc và các nhóm tôn giáo khác nhau".

Theo TTN XXII, tái khám phá sự táo bạo truyền giáo của “xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin cứ lấy đi” nghĩa là nỗ lực "làm cho mỗi người nam/ nữ trở thành nhân vật chính trong sự trưởng thành của mình, có khả năng cống hiến phần đóng góp của mình cho một xã hội được xây trên các giá trị hòa bình, công lý, của việc bảo vệ vũ trụ". Bằng cách này, chúng ta minh chứng "tình yêu tiên liệu của Thiên Chúa nơi các biên cương luôn mới và nơi các biên cương mới của giáo dục, để tiếp chạm những người trẻ nam-nữ nơi họ ở và đón nhận họ như họ là".

Sau cùng, khi ý thức rằng chúng ta đang sống trong một thời điểm với những thay đổi đáng kể, TTN XXIII đã nhận ra những bước tiến lớn được thực hiện trong việc bênh vực nhân quyền, trong phong trào thiện nguyện, trong cảm thức là những công dân trong thế giới. Vì thế, TTN đã nhấn mạnh rằng "chúng ta được mời gọi hợp tác, ngõ hầu thế giới trở thành một địa điểm dễ sống hơn cả cho tất cả mọi người».

Nhờ đón nhận những lời mời gọi từ các TTN và lưu tâm đến những gì được thực hiện để cổ võ và bênh vực quyền được giáo dục, cũng như tới tất cả những gì hỗ trợ quyền có một cuộc sống xứng đáng, năm 2008, Hội Dòng FMA của chúng ta đã được Liên Hợp Quốc công nhận Quyền Tham Vấn (Statuto Consultivo). Bằng cách này, Hội Dòng có thể hiện diện trong các cuộc họp khi quyết định các chính sách giáo dục và có thể là tiếng nói của người hoạt động trong lĩnh vực này. Đây là sự công nhận mà VIDES quốc tế cũng đã được chuẩn cho từ năm 2003.

Để đưa vào hoạt động sự công nhận này, ngay từ năm 2007, trong Ban Tổng Cố Vấn đã thành lập Văn phòng Nhân quyền tại Ginevra (Thụy Sĩ), nơi có trụ sở của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Cộng đoàn ở Veyrier (Tỉnh Dòng Lombarda) đã sẵn sàng tiếp đón Văn phòng Nhân quyền của Hội Dòng.

Hoạt động của Văn phòng hướng tới việc thăng tiến và bênh vực quyền giáo dục, đồng thời liên kết với việc giáo dục cho nhân quyền, bằng cách sử dụng phương pháp do mẹ Antonia Colombo khơi gợi vào thời điểm khởi đầu của Văn phòng: sự khai trình tích cực (la denuncia positiva).

Thông qua các trình báo bằng ngôn từ cũng như văn thư, qua việc trình bày các thực hành tốt lành trong lĩnh vực giáo dục, qua sự tham dự vào các nhóm làm việc, hay qua việc đối thoại với đại diện của các Quốc Gia và các Chuyên Gia độc lập, Văn phòng có thể phổ biến những gì Hiệp hội VIDES cũng như Hội Dòng nói chung đã thực hiện cho việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em và giới trẻ.

Các khóa đào tạo cho FMA, những người đời và những người trẻ tham gia vào văn phòng giúp duyệt xét và tái khám phá Hệ thống Dự phòng dựa trên ngôn ngữ nhân quyền.

Mẹ thấy việc đưa tình trạng của những người trẻ vào chương trình làm việc của Hội đồng Nhân quyền là rất ý nghĩa. Vài nước đã được mời gọi nêu bật điều đang được thực hiện để giúp những người trẻ trở thành các thành viên năng động trong xã hội, thông qua sự tham gia và việc công nhận quyền của họ. Uy tín và sự đánh giá cao nhận được từ đại diện của các Quốc gia hiện diện trong những cuộc họp, cũng như từ các chuyên gia của các Ủy ban và đại diện của các Tổ chức Phi chính phủ (ONG) khác làm cho chúng ta ý thức hơn về tầm quan trọng mà Hội Dòng chúng ta cống hiến cho chiều kích xã hội của việc phúc âm hóa, ngang qua phương pháp giáo dục Salêdiêng - đó là biết tiên kiến để biết tiên liệu, ngang qua việc chia sẻ về những thực hành tốt lành.

Trong lăng kính của nền giáo dục dự phòng

Kỷ niệm 70 năm Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền là một cơ hội để tái khẳng định rằng, ngày nay con đường của nhân quyền đi ngang qua giáo dục, bởi vì dự phòng thì quan trọng hơn là bảo vệ. Niềm đam mê của “xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin cứ lấy đi”, tâm điểm của Hệ Thống Dự Phòng, điều hướng tiến trình giáo dục của chúng ta đến việc cổ võ các quyền lợi và phẩm giá của những người trẻ và của các phụ nữ.

Ngay từ đầu, Don Bosco và Mẹ Mazzarello đã tập trung vào giáo dục, xem đây là con đường để cổ xúy nơi các thế hệ trẻ ý thức về các quyền lợi của họ, cũng như trách nhiệm về các bổn phận tương ứng của họ. Các trường hướng nghiệp do Don Bosco thành lập, các hợp đồng lao động do các nhà tuyển dụng yêu cầu minh chứng cho nỗ lực của ngài trong việc cổ võ những quyền này. Cả Mẹ Mazzarello, khi bắt đầu xưởng may, cũng đã có ý định góp phần vào việc nâng cao xã hội và tinh thần của các thiếu nữ.

Tiếp nối kinh nghiệm đoàn sủng nguyên thuỷ, tại mọi ngõ ngách của thế giới, các FMA và các cộng đoàn giáo dục đều hết mình cổ võ quyền lợi của trẻ em, của những người trẻ và của các phụ nữ. Khi đi kinh lý các Tỉnh Dòng, mẹ vui mừng chứng kiến những điều này.

Nếu giáo dục là đánh thức nhân vị thì việc giáo dục nhất thiết phải được diễn dịch trong nỗ lực hỗ trợ những gì có lợi cho nhân phẩm của những người trẻ. Các quyền con người là một con đường ưu biệt, hơn nữa, đây là con đường để đưa chúng đến việc hiện thực hoá. Việc giáo dục cho nhân quyền giúp ý thức hơn rằng, con người là nguồn của những quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi lẽ, khuôn mặt của tha nhân đòi buộc ta chân nhận, tôn trọng, cổ võ họ trong sự độc đáo của họ, cũng như làm thức tỉnh trách nhiệm của họ: mỗi nhân vị đóng góp vào sự phong phú tinh thần, luân lý và vật chất của cộng đồng xã hội.

Đoàn sủng Salêdiêng cống hiến thêm cho chúng ta một động lực nữa để giáo dục cho nhân quyền vì nhận ra nơi mỗi người trẻ hình ảnh của Thiên Chúa. Những người trẻ là một thế hệ để yêu thương với sự hiến dâng sâu sắc của Don Bosco và của Mẹ Mazzarello, cũng như với sự táo bạo sáng tạo của toàn thể cộng đoàn giáo dục.

Giáo dục nhân quyền bắt đầu từ cộng đoàn. Bầu khí tôn trọng, quan tâm và trách nhiệm trong đối chiếu với mỗi thành viên là bối cảnh thiết yếu để gia tăng sự nhạy cảm giáo dục tiên liệu.

Khi giáo dục nhân quyền khởi đi từ các vùng ngoại biên hiện sinh và địa lý, nơi mà sự xuống cấp rõ ràng hơn, thì nó thực sự mang tính bao hàm và mang phẩm chất tiên liệu. Trong số các dạng nghèo của những người trẻ, chúng ta ưu tiên việc giáo dục phụ nữ trẻ. Bởi lẽ, trong số những người nghèo, họ bị phân biệt đối xử và không có khả năng tự vệ hơn cả.

Phúc âm hóa bằng giáo dục không khác gì với việc giáo dục chonhân quyền. Đây là một thực hành tốt lành mà mẹ có thể chứng thực với lòng biết ơn sâu xa và mẹ muốn khuyến khích cho mọi người.

Xin Đức Maria Phù Hộ giúp chúng ta đi vào trong lăng kính này và đồng hành với chúng ta để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa cho những người trẻ của thời đại chúng ta.

Mong rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục về người trẻ, mà giờ đây trong giai đoạn kết thúc, đong đầy nơi chúng ta niềm hy vọng mới và canh tân nơi chúng ta ý thức rằng, hiến mình cho những người trẻ nam nữ để giáo dục chúng cách toàn diện là nguồn mạch của niềm vui và sự phong nhiêu đoàn sủng. Ngoài ra, đây cũng là cách chuẩn bị một tương lai mới cho một nhân loại được đánh dấu bằng "nền văn minh tình yêu", như Thánh Giáo Hoàng vĩ đại Phaolô VI mới được phong thánh đây đã ước vọng.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho các chị em.

Roma, 24.10. 2018

Thân ái, Mẹ

Nuove Ispettrici 2019

Châu Mỹ

Ispettoria “Nostra Signora della Pace” BOL - Suor Lucila GUERRA

Ispettoria “Maria Ausiliatrice” BRE - Suor Maria Adriana SILVA (da)

Ispettoria “N. S. del Rosario di Chiquinquirá” CBC - Suor Edith FRANCO RUĺZ

Ispettoria “Nostra Signora della Neve” CBN- Suor Cecilia CAMACHO

Ispettoria “San Raffaele Arcangelo” PAR - Suor Marciana TOLEDO