Thư số 934: Triệu tập Tổng Tu Nghị XXIII

Không có file audio

Các chị em thân mến,

Mẹ ngỏ lời đến các chị em để chia sẻ về tiến trình chuẩn bị cho Tổng Tu Nghị XXIII, được thực hiện bởi khoá họp của toàn ban Tổng Cố Vấn và được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của mọi thành phần trong Tu Hội. Ước mơ lớn của Mẹ là kể từ bây giờ, tất cả chúng ta cùng hướng về biến cố quan trọng này, một biến cố đụng chạm đến mọi cộng đoàn và từng người chúng ta.

Âm vang của Thượng Hội Đồng Giám Mục trên đề tài Tân phúc âm hoá để truyền thông niềm tin kitô giáo chạm đến chúng ta và liên quan đến chúng ta. Hồng ân được tham dự vào cuộc họp này đã là một món quà và cũng là trách nhiệm cho Mẹ và cho toàn Tu Hội chúng ta.1 Thượng Hội Đồng Giám Mục đã mở ra trước chúng ta một chân trời mới của niềm hy vọng, của vẻ đẹp và của niềm vui. Chúng ta cảm nhận Giáo Hội được mời gọi để cùng nhau sống cho người trẻ, và trong những cộng đoàn giáo dục một kỷ nguyên mới của sự năng động và sự nhất quán với Tin mừng. Nó đòi hỏi những chứng nhân mới, can đảm và táo bạo, những con người mà trong tâm hồn họ bừng cháy điều Thánh Phaolo đã viết: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cor 9,16).

Tu Hội đã được thiết lập để sống sứ mệnh này, và mỗi giai đoạn lịch sử, Tu Hội tự chất vấn trên những điều kiện để làm cho việc loan báo mang tính ngôn sứ ấy được khả thi và khả tín.

Với việc triệu tập công khai Tổng Tu Nghị sắp tới, trong những trang kế tiếp các chị em sẽ bắt gặp những suy tư đã chia sẻ với các chị em trong Ban Tổng Cố Vấn về thắc mắc này. Một nghi vấn mà ngày hôm nay lại vang lên với sự khẩn trương mới, và đâu là tiếng vọng của Thượng Hội Đồng và của những Kiểm thảo ba năm được gợi lên.

Việc triệu tập Tổng Tu Nghị XXIII

Với thư luân lưu này, Mẹ triệu tập công khai Tổng Tu Nghị XXIII, theo khoản luật số 138 của Hiến Luật Con Đức Mẹ Phù Hộ. Tổng Tu Nghị này sẽ được khai mạc tại Nhà Mẹ ở Roma vào ngày 22 tháng 9 năm 2014.

Việc tiến hành Tổng Tu Nghị là thời gian cao điểm để duyệt xét, suy tư và định hướng, hầu tìm kiếm thánh ý Chúa cách tập thể” (k. 135)

Nhiệm vụ của Tổng Tu Nghị là “bàn về những vấn đề hệ trọng nhất liên quan đến đời sống Tu Hội, hầu có được sự hiện diện hữu hiệu hơn nữa trong Giáo Hội và trong thế giới” (k. 136). Điểm quan trọng nổi bật là việc bầu cử Bề trên Tổng Quyền và ban Tổng Cố Vấn. Như Don Bosco đã viết trong lời triệu tập Tổng Tu Nghị thứ hai tại Nizza, “lợi ích của toàn Tu Hội và vinh quang của Thiên Chúa phụ thuộc phần lớn” vào việc bầu chọn được một ban Cố Vấn tốt và một Bề trên khôn ngoan.2

Chính vì thế mà từ bây giờ chúng ta nỗ lực trong cầu nguyện cá nhân cũng như cộng đoàn, để Tổng Tu Nghị sắp tới được ấn định cử hành vào giai đoạn cuối của hành trình chuẩn bị mừng hai trăm năm sinh nhật của Don Bosco đạt kết quả tốt đẹp. Chúng ta cũng phó thác mọi sự cho sự bảo trợ của Mẹ Phù Hộ và của các Đấng Sáng Lập dòng chúng ta.

Điều phối viên cho Tổng Tu Nghị lần này mẹ đã chỉ định sơ Chiara Cazzuola, do đó những tài liệu làm việc trong các Tu Nghị tỉnh sẽ phải được gởi đến chị.

Trước Tổng Tu Nghị, sẽ có cuộc Tĩnh Tâm ở Mornese. Kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa, việc cầu nguyện, việc đối chiếu với những nguồn mạch đoàn sủng, cuộc gặp gỡ với Mẹ Maria Domenica Mazzarello và các chị em tiên khởi với cường độ mãnh liệt, sẽ giúp chúng ta hít thở không khí của ngôi nhà, “ngôi nhà tình yêu Thiên Chúa”, mô hình sống động của mỗi cộng đoàn chúng ta.

Chọn lựa chủ đề cho Tổng Tu Nghị

Chúng tôi gợi lại những bước đã thực hiện trong việc chỉ ra những thách đố nổi lên và việc xây dựng chủ đề cho Tổng Tu Nghị XXIII, như: chú tâm đến bối cảnh xã hội – văn hoá hôm nay; đối chiếu với thực tế của các Tỉnh dòng ngang qua các cuộc thăm viếng; lắng nghe bao có thể những gì đã nổi lên trong các cuộc Kiểm thảo ba năm và trong những đề xuất của các Đại hội Liên Tỉnh, từ Tỉnh dòng SPR và những cộng đoàn trực thuộc vào Mẹ Bề trên Tổng quyền; rảo nhìn lại bước tiến của Tu Hội trong những Tổng Tu Nghị cuối cùng (1984-2008); chú tâm đến những viễn ảnh Giáo hội của việc tin mừng hoá mới, khởi đi từ kinh nghiệm của Đại hội Thượng Hội Đồng Giám Mục và của đời sống tu trì hôm nay.

Với tất cả những suy tư đó, chúng tôi đã xây dựng chủ đề của Tổng Tu Nghị XXIII, mà giờ đây Mẹ vui mừng trao phó cho toàn Tu Hội:

“Với người trẻ, trở thành ngôi nhà tin mừng hoá cho hôm nay”

Đề tài đặt mình trong những chân trời của việc tân phúc âm hoá và trong bối cảnh của những vấn nạn nối kết với sự thiếu vắng đức tin, thiếu mối tương quan, thiếu những quy chiếu có ý nghĩa, thiếu một môi trường – nơi mà người ta cảm thấy như nhà của mình. 3

Trong các cộng đoàn chúng ta cũng hiện rõ ước muốn và cả nỗi mệt nhọc để có thể có một dung mạo nhân bản và tin mừng hơn cho những mối tương quan của chúng ta.

Tương quan trong chủ đề của Tổng Tu Nghị được xem như địa điểm ưu biệt của việc Tin mừng hoá. Thực vậy, sự hiệp thông là chứng từ đầu tiên và không thể thay thế mà chúng ta được mời gọi để trao ban cho thế giới, trong một Giáo Hội đang tìm kiếm để có một diện mạo tiếp đón, khiêm tốn, gần gũi ngày càng hơn với con người.4

Ngôi nhà trong truyền thống salesien là một môi trường gia đình do các nữ tu FMA, người trẻ, người đời gầy dựng, đó là một bầu khí đồng trách nhiệm vốn tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng của con người, tăng cường niềm vui, là không gian để loan báo về Chúa Giêsu và là lời kêu mời đối với ơn gọi. Nhà là kinh nghiệm của sự hiệp thông trong phong cách của Hệ thống Dự phòng mở rộng những chân trời của sứ mệnh, đến những nhu cầu của Giáo Hội và của mỗi lãnh thổ.

Điều quan trọng trong ngôi nhà đó là những người trẻ cảm thấy hạnh phúc và là những nhân vật chính năng động cùng với chúng ta, cùng đảm nhận vai trò người tin mừng hoá trong sứ mệnh, giữa những người trẻ khác.

Một đóng góp cho việc đào sâu chủ đề

Chìa khoá giải thích cho chủ đề là chính căn tính của người nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ chúng ta: người nữ thánh hiến, được mời gọi để làm chứng cho đời sống mới của các mối phúc, trong một cộng đoàn được sinh động bởi tinh thần tông đồ của Don Bosco và của mẹ Mazzarello, bằng việc loan báo Chúa Kitô cho người trẻ, và với người trẻ trong cộng đoàn giáo dục (x. k.8)

Điều kiện không thể thiếu cho một hành động giáo dục tin mừng hoá là chứng tá của người “sống lý tưởng mình loan truyền trong sự hiệp thông” (k.68), theo như lời của Chúa Giêsu “hãy đến mà xem”: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).

Chủ đề làm chúng ta cảm nhận sự khẩn trương phải để mình được tin mừng hoá, để đời sống chúng ta trở thành lời loan báo tin mừng, khởi đi từ chính sự nhất quán của bản thân, từ phong cách của những tương quan cộng đoàn, từ việc chọn lựa những người nghèo hơn. Một cộng đoàn làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa với niềm vui thì loan báo Tin Mừng và lên đường tìm kiếm những người còn chưa có được kinh nghiệm về Thiên Chúa.

Do vậy, đề xuất của chủ đề vẫn tiếp tục với những hành trình hoán cải về với tình yêu đã được Tổng Tu Nghị XXII chỉ định, và nhấn mạnh đến phạm trù gặp gỡ, khía cạnh nền tảng trong căn tính đoàn sủng của người Con Đức Mẹ Phù Hộ và trong sứ mệnh hôm nay.

Để đào sâu đề tài, mẹ xin đề ra một vài suy tư bằng việc tập trung vào một vài nhân tố:

Thực tế văn hoá- xã hội và giáo hội hôm nay thách đố chúng ta làm sống động lại trách nhiệm của căn tính đoàn sủng của chúng ta.

Yêu sách của việc tân phúc âm hoá chất vấn chúng ta như những người môn đệ truyền giáo loan báo và làm chứng cho niềm vui và vẻ đẹp đức tin cũng như của cuộc gặp gỡ Đức Kitô trong một cộng đoàn cùng với người trẻ, với bất kỳ sứ mệnh và lứa tuổi nào được trao phó cho chúng ta.

Lời Chúanhững nguồn đoàn sủng giúp chúng ta tiếp thu sức mạnh ngôn sứ của chủ đề. Ngôi nhà càng là môi trường no đầy Tin mừng bao nhiêu, thì càng cuốn hút và lây lan, càng giáo dục và biến đổi bấy nhiêu

Từ việc đối chiếu với các nguồn, ta có thể làm rõ những định hướng và những thôi thúc để việc cùng với người trẻ, trở thành ngôi nhà tin mừng hoá cho hôm nay là điều có thể.

Thực vậy, mục tiêu của Tổng Tu Nghị XXIII là giúp cho toàn thể Tu Hội, và trong đó, từng thành viên Con Đức Mẹ Phù Hộ và cộng đoàn giáo dục canh tân chính hiện hữu mình và trở thành hữu thể trong sự tương quan, như con đường của việc tin mừng hoá. Trong Hiến Luật, đã xác nhận rằng trong các khoản về đời sống huynh đệ và về sứ mệnh, rằng hai khía cạnh này bất khả phân ly: Cộng đoàn là không gian của việc tin mừng hoá và tin mừng hoá là sức mạnh để canh tân cộng đoàn.

Suy tư về chủ đề tu nghị sẽ có thể khích lệ chúng ta chứng minh lại tính đúng đắn của việc lựa chọn phong cách tương quan ngày càng đượm tính tin mừng và salesien, được sống giữa chúng ta, với người đời và với người trẻ, trong Gia đình salesien và trong Giáo hội địa phương, cởi mở cho vùng đất nơi ta sống và cho các Hội dòng tu khác.

Chủ đề chạm đến những khía cạnh ý nghĩa của tinh thần gia đình, được cụ thể hoá như sự tin tưởng, lòng nhân hậu, lòng trìu mến, hy vọng, và cùng lúc, tinh thần gia đình này cũng có nghĩa là sự đồng trách nhiệm, đường lối sinh động trong tinh thần đồng cộng tác cho sự hiệp thông5 và nỗ lực trong việc để cõi lòng mình được tin mừng hoá, để có thể loan báo Đức Giêsu cách khả tín.

Những thách đố mà chúng ta đối diện hôm nay, trên bình diện xã hội và xã hội, là cơ hội để chúng ta phản tỉnh, hoán cải và phúc âm hoá.

THỰC TẾ CHẤT VẤN CHÚNG TA

Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta thế giới, như một ngôi nhà để gìn giữ, trong ngôi nhà đó, những mối tương quan ý nghĩa được sống và được cư ngụ. Tuy nhiên, rất nhiều nơi trên trái đất cảnh báo về việc vắng bóng ngôi nhà và thiếu vắng gia đình, sự vắng mặt của các người cha, người mẹ mà với sự khôn ngoan, tình yêu và sự quân bình, họ biết chỉ ra cho những người trẻ những nẻo đường tự do đích thực và sự tròn đầy của đời sống, và chính họ là chứng nhân của niềm hy vọng. Những khó khăn và những đau khổ mà các trẻ em và người trẻ đang phải hứng chịu do bởi sự đổ vỡ những tương quan gia đình cùng mọi hệ quả của chúng đã đặt ra nhiều thách đố, thì ngày nay, thực tế lại đặt ta trước vấn nạn khác về sự tồn tại của loại gia đình được hình thành bởi một người cha – đàn ông, và một người mẹ - đàn bà, tạo nên sự mất định hướng và gây nên những thách đố nghiêm trọng trong việc giáo dục, trong một thời đại đang thiếu vắng những điểm quy chiếu chắc chắn vốn giúp xây dựng căn tính riêng của con người.

Một ngôi nhà để gìn giữ và để dựng xây

Chúng ta xác định rằng, trong căn nhà này, tức là ngôi nhà thế giới giầu những thành tựu về khoa học – kỹ thuật, con người không là trung tâm. Trong thế giới này, cái thường xuyên nhắm đến là những thu nhập, lợi nhuận, sự giầu có cá nhân ảnh hưởng trên những luật của việc chung sống và gây nên những bất công vốn xâm phạm đến quyền căn bản của con người, bất chấp những nỗ lực của bao tổ chức đang ra sức làm việc để công nhận những quyền này. Vẫn còn có sự khác biệt rất lớn giữa những tuyên bố công khai của chính quyền và sự không tôn trọng con người.

Học thuyết xã hội của Giáo Hội cống hiến cho nhân loại chìa khoá giải thích mang tính tin mừng cho tình huống hiện tại. Học thuyết này hướng dẫn mỗi kitô hữu, và cho chúng ta – các nhà giáo dục, nhằm thúc đẩy một sự đóng góp hữu hiệu cho việc xây dựng một thực tế xã hội đúng đắn, trước hết khởi đi từ việc phục vụ cho phẩm giá của con người và cho việc bảo vệ những quyền lợi của họ.6

Trong khi chúng ta đón nhận những thách đố như những lời mời gọi mới, chúng ta nhìn thế giới với niềm hy vọng vì tin rằng Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết, và Thánh Thần của Ngài đang hoạt động trong lịch sự với quyền năng. Thực vậy, thế giới là tạo vật của Thiên Chúa, bị thương tổn do sự dữ, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương thế giới, cho nên, thế giới này vẫn có thể được hạt giống của Lời canh tân, hầu đem lại những hoa trái.

Đất đai là tặng ân của Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên nó bằng tình yêu. Ngày hôm nay, đòi hỏi sự hoán cải của chúng ta là từ những người tiêu thụ- những người lợi dụng, trở thành những người bảo vệ tạo vật mạnh mẽ nhất.

Từ nội tại của con người phải khởi đi một cuộc đảo lộn lối suy tư-hành xử với ý thức trách nhiệm. Chỉ có sự bảo vệ môi trường của con người mới thực sự giải quyết được những vấn đề về môi trường, là vấn đề ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai nhân loại.

Trong một xã hội thay đổi liên tục

Sự thay đổi là một sự kiện thường hằng trong văn hoá và trong xã hội hôm nay, tốc độ của những đổi mới mà trong đó chúng ta liên tục tham gia, khiến cho ta phải ngạc nhiên vì những phát triển lớn lao của khoa học và kỹ thuật thực tiễn, nhưng nó cũng gây ra không ít sự bất ổn và mất định hướng.

Khủng hoảng kinh tế - một hiện tượng được phổ quát hoá giờ đây đang trở nên thường xuyên – làm đảo lộn những thế quân bình trong nội tại xã hội và quốc gia dưới nhiều hính thức khác nhau, bằng việc đánh vào những người nghèo hơn, những người nữ, những người trẻ, trẻ em, người cao niên, tạo nên những khối nghèo khó ngày càng rộng lớn, làm cho tình trạng vô gia cư và thất nghiệp càng rơi vào thảm kịch.

Hiện tượng di dân, được lý giải trước hết với lý do đi tìm điều kiện sống tốt hơn, cũng vừa do nạn phân biệt chủng tộc và chiến tranh, đã gây ra việc bứng con người ra khỏi miền đất của dân tộc mình, họ thường xuyên là những người bị thiệt thòi nhất của mỗi châu lục.

Chính trị, được kêu gọi để thăng tiến công ích của các dân tộc, lại vướng vào những vấn đề liên quan đến tham nhũng, lợi ích cá nhân và tìm kiếm những ưu đãi cho bản thân. Chính vì thế mà người trẻ thường thấy thất vọng khi đối diện với cách thức quản lý “việc công cộng” của những nhân vật có thẩm quyền, khiến chúng có xu hướng ngày càng tránh xa những dấn thân về chính trị.

Ngày hôm nay, chúng ta cũng cảm thấy rằng thách đố về truyền thông thực lớn biết chừng nào, nó ảnh hưởng đến sự thay đổi của nhân học với tác động mạnh mẽ trên bình diện tương quan giữa các cá nhân. Thực vậy, sự thay đổi đang xảy ra trên thực tế không chỉ trên vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế. Sự thay đổi liên quan đến những khía cạnh nền tảng của con người, căn tính, cách thức tương quan của họ. Tình bạn trực tuyến phát triển mạnh và những mối liên kết trong Mạng tạo nên những môi trường mới, trong đó, con người chung sống với nhau. Đồng thời, những mối tương quan lại có khuynh hướng bị suy yếu, cả trên bình diện gia đình, tạo nên khoảng cách, vội vã, hời hợt.

Với những mặt tích cực không thể chối cãi của văn hoá truyền thông, nó bao hàm cả những hình thức nghèo khó mới: những người nghèo hôm nay gồm cả những người không có những phương tiện và những công cụ để tìm hiểu và sử dụng những công nghệ truyền thông mới. Sự thiếu hiểu biết và không được đào tạo trong nền văn hoá này trở thành một nhân tố làm giảm thiểu khả năng đến với những người khác.

Làm thế nào để giáo dục thế hệ ảo, thế hệ “vô hình” về điện thoại di động, về vi tính, về việc tận dụng mạng xã hội? Đây là một thách đố đáng kể đối với chúng ta, những nhà giáo dục người trẻ.

Sự nghèo khó từ muôn mặt mở ra những không gian tiềm ẩn cho việc phục vụ của đức ái. Việc công bố Tin mừng thúc đẩy chúng ta đứng về phía người nghèo như Giáo Hội, và làm cho chúng ta mang vác những đau khổ của họ như Chúa Giêsu. Sự thay đổi sâu sắc trong xã hội đã cống hiến cho Giáo Hội cơ hội và sức đẩy để suy tư lại về chính sự hiện diện của mình trong thế giới.

Giáo hội hiện diện sống động giữa các dân

Biến cố mừng 50 năm Công đồng Đại Kết Vaticano II đã khơi dậy một nhận thức sống động hơn trong Giáo Hội về ý thức mình là dân Thiên Chúa đang lữ hành, một dân chia sẻ những niềm vui và niềm hy vọng của nhân loại. Giáo Hội là “nhà của Thiên Chúa trong đó gia đình của Ngài cư ngụ”7, “là nhà và trường của sự hiệp thông”. 8

Luật mới về tình yêu mà Giáo hội loán báo thì ôm trọn cả thế giới và không biết đến giới hạn, bởi vì ơn cứu độ của Chúa Kitô mở rộng “đến tận cùng bờ cõi trái đất” (Tđcv 1,8).

Chính Giáo Hội đang sống một kỷ nguyên mới của việc tin mừng hoá và của việc hiện diện giữa muôn dân, ngang qua một giai đoạn thử thách lớn bởi những vết thương gây ra do sự mỏng dòn và yếu đuối của một vài phần tử trong Giáo Hội, mà với truyền thông đại chúng, nó lại càng được phóng đại và trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, sự đau khổ của Giáo Hội gợi nhắc lại Mầu nhiệm Phục sinh và báo trước về một tương lai của niềm hy vọng.

Nhân loại đang sống trong cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu, không chỉ ở bình diện văn hoá mà còn cả đức tin nữa. Cuộc đối thoại đại kết và liên tôn, được xây dựng trong cuộc sống và trong những chia sẻ hơn là trong ý tưởng, là điều kiện cần thiết cho hoà bình trên thế giới và trong sự dấn thân nghiêm túc đối với các kitô hữu và cho các tôn giáo khác.

Trong một thế giới mà dường như dấu vết của Thiên Chúa bị đánh mất, Giáo Hội tin tưởng vào chứng tá ngôn sứ của những người thánh hiến: những người nam và nữ bày tỏ sự tối thượng của Thiên Chúa qua việc bước theo Chúa Kitô thanh khiết, khó nghèo và vâng phục, hoàn toàn trao phó bản thân cho Cha và cho việc loan báo Nước Thiên Chúa. Đứng trước chủ nghĩa khoái lạc, họ cống hiến chứng tá về sự thanh khiết, như sự diễn tả của một tâm hồn nhận biết được vẻ đẹp và giá trả của Tình Yêu. Đứng trước cơn khát tiền bạc, đời sống thanh đạm và sẵn sàng phục vụ những người nghèo khổ hơn nhắc nhớ rằng Thiên Chúa là sự giầu có đích thực và bất tử. Đối diện với chủ nghĩa cá nhân và thuyết tương đối, vốn dẫn đưa con người đến chỗ coi mình là luật cho chính mình, thì đời sống huynh đệ, khả năng vâng phục, trong việc đồng cộng tác và đồng trách nhiệm, khẳng định rằng Thiên Chúa là sự hiện thực tròn đầy cho con người.9

Trong nhiều bối cảnh, ngang qua một giai đoạn chuyển tiếp do nhiều thách đố, đời sống thánh hiến đã rơi vào tình trạng như giảm thiểu ơn gọi, già nua, vô nghĩa với xã hội, phân tán về căn tính đoàn sủng, mất đi tính hữu giác của đời sống cộng đoàn tu trì, mệt mỏi để canh tân cấu trúc và để tìm ra những hình thái tông đồ mới. Tất cả những điều này làm nảy sinh sự bất ổn và một sự khủng hoảng căn tính sâu xa, có thể là nguồn gốc của một sự biến đổi ý nghĩa và thời gian thai nghén cho một đời sống mới.

Những người trẻ tìm kiếm một ngôi nhà

Như người Con Đức Mẹ Phù Hộ, chúng ta cảm thấy đặc biệt bị chất vấn bởi những nhu cầu sâu xa của người trẻ, những người mà chúng ta nhìn ngắm họ với niềm tin tưởng, vì như Don Bosco đã nói, các em là thành phần yếu đuối nhất, mỏng dòn nhất của xã hội, nhưng đồng thời các em cũng là niềm hy vọng và sức mạnh, là hiện tại và tương lai xã hội. Ngày nay, những người trẻ, xét về nhiều mặt, họ cũng không khác gì các thế hệ trước đây. Họ xuất hiện có lẽ với vẻ mỏng dòn hơn, phân mảnh hơn, khiếm khuyết hơn, nhưng họ có khả năng quảng đại và dâng hiến, cởi mở trước Tin mừng, dấn thân trong thiện nguyện xã hội và truyền giáo nếu bản thân họ được một lý tưởng thúc đẩy. Chúng ta xác tín rằng giáo dục là con đường ưu biệt để nâng đỡ người trẻ trong việc xây dựng căn tính, nó đóng góp cho việc giải quyết vào nhiều vấn đề của người trẻ và là một cách thức chống lại những hình thức đa dạng của nghèo đói vốn cản trở cho một đời sống có phẩm giá và hạnh phúc, cũng như đối với tương lai của họ.

Những người trẻ, đôi khi thiếu những qui chiếu xã hội và ý nghĩa của việc thuộc về, họ có xu hướng làm những chọn lựa riêng của mình mà không xem xét đến tính cùng nhau của những giá trị, lý tưởng và những quy luật chung. Họ đảm nhận nhiều điểm quy chiếu khác nhau, và thường xuyên trái ngược nhau, để rồi sau đó trải nghiệm về nó trong chính lối sống của họ. Những người trẻ này có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa xu thời của thời trang, để mình bị thấm nhiễm bởi nó hơn là xây dựng sự tự do của bản thân khởi đi từ những lý lẽ mạnh để sống và để yêu mến. Chính vì thế mà họ thất vọng, dễ vỡ trong tình cảm, nghi ngờ chính mình, thiếu vắng niềm hy vọng và triển vọng.

Cùng lúc, từ bên trong những người trẻ lộ ra những khát vọng hướng đến sự đích thực, đến tự do, đến chân lý, đến lòng quảng đại, đến dấn thân xã hội. Như những nhà giáo dục salesien, chúng ta xác tín rằng những người trẻ có thể tìm thấy lời đáp trả phù hợp trong năng lực giải phóng của ân sủng Đức Kitô, nguồn ân sủng có khả năng làm trưởng thành niềm xác tín vững mạnh và mở ra việc trao ban chính mình. Lúc ấy, chính họ sẽ trở thành nhà cho những bạn trẻ khác và cho cả những người lớn, họ làm ta thức tỉnh khỏi sự nhàm chán với khả năng sáng tạo của họ.

Ở bình diện đức tin, thế hệ hiện tại – mặc dù trong những bối cảnh khác biệt – vẫn đang thao thức tìm kiếm những cảm xúc và những kinh nghiệm mang tính tình cảm cuốn hút hơn là sự dửng dưng hay cứng tin. Thậm chí trong rất nhiều hình thái vô thức, người trẻ đòi xin một tương quan giáo dục mang tính hai chiều, trong đó quan hệ thuộc về được trưởng thành. Người trẻ tìm kiếm một ngôi nhà và những môi trường mà ở đó, vấn nạn tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống có thể được xác định, nơi họ có thể ở lại, được lắng nghe, đối thoại và gặp gỡ nhau.

Ngày nay, như người Con Đức Mẹ Phù Hộ chúng ta được mời gọi để trở thành nhà trong đó người trẻ, đặc biệt những em nghèo hơn có thể làm kinh nghiệm về một cách thức sống khác với thường tình, một không gian tương quan mà nơi đó họ tìm lại được ý nghĩa của hiện hữu và mở ra cho lãnh vực ơn gọi. Những điều này cảnh báo về yêu sách của một lối sống có khả năng hướng người trẻ đến việc làm chứng trong xã hội về sức mạnh có sức biến đổi của đức tin.10

LỜI KÊU GỌI ĐẾN VIỆC TÂN PHÚC ÂM HOÁ

Trong thời điểm lịch sử này, Tu Hội đón nhận sự trao phó bổn phận tân phúc âm hoá mà Giáo Hội uỷ thác cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu và cho mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu, với niềm vui và thái độ sẵn sàng được canh tân.

Nhu cầu khẩn thiết của một tân phúc âm hoá trong thời đại phổ biến mù chữ về đức tin, đã trở thành lời mời gọi hãy chuyển trao đức tin từ thế hệ này cho thế hệ khác, bằng việc thông truyền đức tin với ngôn ngữ có thể hiểu được cho những người nam, người nữ hôm nay, để từ sa mạc của sự dửng dưng và vô tín, tiến đến nơi chốn của sự sống, hướng đến nguồn mạch làm cho thỏa cơn khát.11

Chúng ta ý thức rằng trong sứ mệnh giáo dục salesien không tồn tại sự ưu tiên nào hơn điều này: “Trọng tâm của hoạt động rao giảng Tin mừng của chúng ta là loan báo Chúa Kitô” (k.70).

Đây là lời loan báo vốn có sức đổi mới, làm tăng đức tin và đòi hỏi một chứng từ sâu xa của sự hiệp thông là điều kiện để cho lời loan bao sinh hoa kết trái.

Các cộng đoàn chúng ta được mời gọi để ngày càng trở thành nhà, nơi mà Lời Chúa vang vọng và như Mornese, các cộng đoàn chúng ta là nhà của tình yêu Thiên Chúa, nơi mà Tin mừng được loan báo với đời sống bác ái.

Việc Tin Mừng hoá như cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và chứng từ của cuộc sống.

Giáo Hội có hiện hữu là để Tin mừng hoá.12 “Anh em hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo... Các ông ra đi và loan báo Tin mừng khắp nơi” (Mc 16, 15.20). Lệnh truyền sai đi của Chúa Kitô còn sống động cho mỗi cộng đoàn kitô hữu hôm nay.

Đối diện với việc xa rời đức tin trong những nền văn hoá mà trước đây đã được thấm đẫm Tin mừng, đứng trước sự biến đổi về xã hội và văn hoá, Giáo hội chất vấn chính mình trước tiên về đời sống của mình, về việc đào sâu đức tin của mình, về cuộc gặp gỡ của mình với Đức Giêsu. Giáo hội cảm thấy sự khẩn trương của việc tin mừng hoá trước tiên cho chính mình để có thể loan báo Đức Giêsu cho những người nam, người nữ của thời đại hôm nay, bằng việc công bố Lời của Ngài, Lời vốn tỏ bày sâu xa tình yêu của Thiên Chúa và kế hoạch của Ngài trên nhân loại.

Giáo hội ý thức rằng việc Tin mừng hoá không khởi đầu với việc làm của mình, nhưng với việc thực hiện của Thiên Chúa. Thực vậy, lời đầu tiên là lời của Thiên Chúa, sáng kiến đầu tiên là từ nơi Ngài. Từ việc tiếp thu sáng kiến của Ngài, từ kinh nghiệm về Tình yêu của Ngài mà cá nhân và cộng đoàn có thể tăng trưởng, để rồi sống đức tin trong niềm vui và loan báo về những điều mà họ đã sống và đã nghe từ Lời của sự sống với niềm vui (x.1 Ga 1,1-4).

Đức tin không đặt nền trước hết nơi các ý tưởng, nhưng trên cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu. Chính Ngài đưa ra một hướng đi mới cho hiện hữu con người, Ngài cống hiến cho con người những chân trời hy vọng, Ngài nhận chìm con người vào trong một tương quan mới với Ngài và với tha nhân, đón nhận họ như anh chị em, Ngài làm cho ta có khả năng tham gia vào một cộng đoàn thấm đượm sự hiệp thông với niềm vui của cuộc gặp gỡ này. Trong đức tin, Đức Maria - mẹ của Chúa Giêsu và mẹ Giáo Hội, là người loan báo tin mừng đầu tiên, là người mà “Lời Chúa thực sự trở thành nhà của ngài”.13

Trong thời điểm lịch sử mà chúng ta đang sống, cần những con người say mê mà ngang qua việc sống đức tin và chiếu sáng đức tin, họ làm Thiên Chúa được trở nên khả tín trong thế giới. Đó là những con người mà ánh mắt họ nhắm thẳng vào Thiên Chúa, học hỏi nơi Ngài về nhân loại tính thực sự. Chỉ ngang qua những con người đã được Thiên Chúa chạm đến thì Ngài mới có thể trở lại trong tâm hồn của muôn dân.14

Tin mừng hoá là biết đọc những dấu chỉ của Lời đã nhập thể trong thực tại đầy đau khổ và vui sướng của nhân loại. Tin mừng hoá là tạo ra những điều kiện để những người lớn và người trẻ có thể gặp gỡ, nhận biết và đón nhận Đức Giêsu, Tình yêu của Cha mà Ngài đã mặc khải cho chúng ta. Trong kinh nghiệm của một Giáo Hội đón nhận và làm chứng, Tin mừng hoá giới thiệu một nơi chốn mà trong đó người ta được lớn lên như một nhân loại mới, một nhân loại được biến hình từ tình yêu của Ngài, có khả năng trở thành nơi chốn liên đới với mọi người. Tin mừng hoá là công bố Chúa Giêsu với niềm vui, bằng việc đáp trả những vấn nạn đề xuất từ những tâm hồn bồn chồn của nhân loại hôm nay với sự khôn ngoan tin mừng.

Việc đảm nhận lời mời gọi của Giáo Hội cho việc tân phúc âm hoá nơi cộng đoàn giáo dục, đòi hỏi rằng cộng đoàn phải sống kinh nghiệm gặp gỡ với Đức Giêsu, vun trồng sự đào sâu hiểu biết về Ngài, ngang qua cả một sự chuẩn bị đầy phẩm chất về chiều kích Kinh thánh, thần học, giáo lý, đánh giá những ngôn ngữ và phương tiện truyền thông mới, để lời đức tin có thể hiểu được cho ngày hôm nay.

Như người Con Đức Mẹ Phù Hộ, chúng ta cảm thấy được thách thức để suy tư lại về phương thức và ngôn ngữ cho việc loan báo tin mừng. Việc tin mừng hoá không chỉ là công bố tin mừng, nhưng toàn bộ cuộc sống ta phải trở thành tin mừng. Cũng không chỉ cá nhân, mà như cộng đoàn luôn đặt Chúa Giêsu là trung tâm, tụ họp chung quanh Lời và Thánh thể, vun trồng tình yêu với các anh chị em, trở thành nơi chốn đón tiếp và hiệp thông với mọi người, trên hết là cho các gia đình và cho những người trẻ nghèo khổ hơn.

Giáo dục là trung gian ưu biệt để tin mừng hoá

Giáo Hội nhìn vào những thế hệ mới với niềm hy vọng. Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua bàn về Tân phúc âm hoá để chuyển trao đức tin kitô giáo đã bày tỏ sự quan tâm đặc biệt dành người trẻ. Giáo Hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đề xuất cho người trẻ trong lối diễn tả khả tín về con người Đức Giêsu, với sức mạnh của chứng tá và hiệp thông, và tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ với Ngài; đây là một cuộc gặp gỡ có sức giải phóng thậm chí rất đòi hỏi, nhằm trả lời cho chất vấn của họ về đời sống và về tương lai.

Ngoài ra, Hội nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng ước mong rằng đời sống thánh hiến cảm thấy trách nhiệm trao ban sự đóng góp đặc biệt cho nỗ lực giáo dục, bởi vì việc thông truyền đức tin được thể hiện trong cách thức ưu biệt ngang qua việc giáo dục. Trong thời đại nguy cấp của giáo dục thì việc đào tạo những nhà giáo dục nam nữ thật cấp bách. Những nhà giáo dục đảm nhận sứ mệnh này cần phải hiểu rõ là không chỉ mình giáo dục, nhưng là để mình được giáo dục từ chính những người trẻ.

Nếu việc chấp nhận đề xuất kitô giáo được thực hiện ngang qua những tương quan gần gũi, trung thành và tin tưởng, trong đó nó được kinh nghiệm như chính việc tìm kiếm đức tin, thì lời “tôi tin” riêng của cá nhân được nâng đỡ và đồng hành bởi lời “chúng tôi tin” của cộng đoàn. Hơn nữa, trên mọi kế hoạch, chương trình thì sự hiệp nhất giữa những người con Thiên Chúa, những người mà Đức Giêsu đã dâng hiến sự sống cho họ, phải là điều kiện tiên quyết cho bất cứ mọi hoạt động hay sáng kiến nào. Trong khi thực hiện việc hiệp thông, cộng đoàn giáo dục diễn tả như “bí tích”, dấu chỉ có thể đọc được về tình yêu tiên liệu của Chúa Cha, ngay cả trong những bối cảnh chưa được loan báo Tin mừng.

Tình huynh đệ là lời ngôn sứ mà thế giới hôm nay hiểu được cách tức thời. Trong thực tại phức tạp, đa văn hoá và đa tôn giáo, cộng đoàn giáo dục có thể trở thành những phòng thí nghiệm của nhân loại tính và của công dân hoàn vũ, dấu chỉ phổ quát của Giáo Hội và là không gian chứng tá vui tươi của niềm tin.

Trong những cộng đoàn này, người trẻ có thể học tập để trở thành những nhân vật chính của việc tân phúc âm hoá giữa những bạn đồng trang lứa, để sống và chứng tá cho một nền kitô giáo không giảm thiểu vào việc thờ phượng và theo truyền thống, nhưng được sống với sức mạnh của nền văn minh của môi trường sống và của những thiết định giáo dục.

Để những thế hệ mới có thể sống kinh nghiệm này, cần có một sự chú tâm ưu biệt đến các gia đình, như những địa điểm trong đó đức tin được truyền đạt trong sự nối tiếp của các thế hệ được bắt gặp như trong môi trường tự nhiên. Thực vậy, trong sự chăm sóc mà mỗi gia đình dành riêng cho sự tăng trưởng của con cái họ, thì những dấu chỉ của đức tin, sự thông truyền những chân lý đầu tiên, việc giáo dục cầu nguyện, chứng tá của hoa trái tình yêu được nhận chìm trong hiện hữu của những trẻ em và của các thanh thiếu niên.15

NHÀ LÀ ĐỊA ĐIỂM GẶP GỠ VÀ SAI ĐI

Lời Chúa giúp cho việc đọc chủ đề Tổng tu nghị trong chiều sâu, trong kinh nghiệm về ngôi nhà. Trong quan điểm Kinh thánh, ngôi nhà16 mang ý nghĩa kép đôi: gồm ngôi nhà được xây dựng và nhà được làm nên bởi những con người – gia đình – lịch sử. Cựu ước được trải qua với vài khuôn mẫu điển hình về Thiên Chúa, Đấng “viếng thăm” và “gặp gỡ” con người trong nhà của họ, như Abraham và Sara, đã tiếp đón những sứ giả của Thiên Chúa (x. St 18), hay về một Thiên Chúa mặc khải như Đấng cư ngụ giữa các tạo vật của Ngài. Lời hứa với Giacop về mảnh đất trên đó ông đang nghỉ ngơi sẽ được dành cho con cháu ông đã khơi lên trong vị tổ phụ cảm thức rằng “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở nơi này mà tôi không biết!" (St 28,17) sau đó, Giacop đã đặt tên cho nơi này là Betel, nghĩa là “nhà của Thiên Chúa”.

Đa vit đã muốn xây cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng Thiên Chúa trả lời rằng “chính Thiên Chúa sẽ lập cho ngươi một nhà” (2 Sam 7,11b). Trong sách Xuất hành, nhà của Thiên Chúa được biểu trưng bởi Hòm bia Giao ước: “Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi” (Xh 25, 16).

Trên đây chỉ là một vài đoạn kinh thánh mặc khải về Thiên Chúa chính là “người thợ xây” nhà, Đấng thiết lập ngôi nhà và cư ngụ trong ngôi nhà, như Thánh vịnh hằng nói đến.

Thiên Chúa cư ngụ trong nhà chúng ta

Trong Đức Giesu “Thiên Chúa đã cắm lều ở giữa chúng ta” (Ga 1,14): một căn lều giữa những ngôi lều, ngôi nhà giữa những ngôi nhà. Con Thiên Chúa đã nhập thể và trải qua phần lớn cuộc sống trong một xưởng thợ nhỏ ở Nazareth. Trong chặng đường của kinh nghiệm truyền giáo, Ngài đã chọn nhà như địa điểm gặp gỡ và biến đối. Ngài đã vào nhiều nhà: lúc thì trọ tại nhà các môn đệ, tại nhà của Phero; Ngài dừng lại ở nhà những người bạn như Lazzaro, Marta và Maria ở Betania (Ga 11,1-45 – Lc 10,38-42); Ngài đã ở lại trong nhà của các Phariseu như nhà ông Simon (Lc 7,36-49) chẳng hạn; Ngài đã là dấu hiệu của niềm hy vọng và sức mạnh của sự sống lại trong nhà ông Giairo (Lc 8,49-56). Thậm chí Ngài còn thường xuyên đến nhà của những người tội lỗi. Ngài đã nói với ông Giakêu: “Hôm nay, tôi sẽ phải ở lại nhà ông” đã khiến mọi người ngạc nhiên (Lc 19,5).

Thường thì sau khi rao giảng cho đám đông, Đức Giêsu lui “về nhà” để giải thích sâu rộng về nội dung của lời Ngài. Sau diễn văn về những dụ ngôn, Ngài giải thích ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn “tại nhà” (Mt 13,36). Như thế, nhà trở thành địa điểm để giáo huấn, dậy dỗ, đồng hành. Tại đó, chân lý thâm sâu, chân tính của con người được lộ ra, do vậy, nhà còn là nơi của hoán cải, giáo dục và tin mừng hoá. Thật thú vị để dõi theo trình thuật giải thoát cho người thanh niên bị quỷ ám. Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu, anh ta có “nhà ở giữa đám mồ mả”. Sau khi chữa lành anh ta, Đức Giêsu nói với anh: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh..." (Mc 5,1-20).

Trong việc rời bỏ những môn đệ quý giá nhất của Ngài, và chính thân thể Ngài, Đức Giêsu đã chọn lựa để tập họp quanh Ngài một gia đình trong phòng tiệc, đó là bữa ăn tối cuối cùng, Ngài đã trao phó mình như Thánh Thể - Tạ ơn, sự tưởng nhớ về mầu nhiệm phục sinh cho mọi thời.

Trên thập giá, chính Đức Giêsu đã cống hiến chỗ nương ẩn trong nhà của Ngài: “Ngày hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi” (Lc 23,43).

Đối với Chúa Giêsu, nhà là nơi của tương quan, của việc bày tỏ thần tính của Ngài, của sự sai đi để loan báo tin mừng: “Các con hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng” (Mc 16,15), và nhà cũng là nơi các môn đệ trở về sau khi loan báo Tin mừng. Đức Giêsu đã chọn những người bạn của cuộc sống (Mc 3,14), không để “làm” cái gì đó cho Ngài như người ta thường làm, nhưng là để sẵn sàng “làm nên ngôi nhà” với Ngài, làm kinh nghiệm cuộc sống với Ngài, cùng sống và kiến tạo sự hiệp thông.

Ở với Đức Giêsu là cư ngụ với Đấng dậy dỗ và sai đi làm chứng bằng cuộc sống được đâm rễ sâu trên đá tảng của Lời (cf Mt 7,24-27).

Maria – nơi cư ngụ sống động của Thiên Chúa

Sự hiện diện của Đức Maria trong cuộc sống Đức Giêsu và trong đời sống của Giáo Hội đã cụ thể hoá ý nghĩa kinh thánh, về hình tượng nhà như nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Trước khi sinh ra, Đức Giêsu đã sống kinh nghiệm “bước vào nhà” khi được mẹ của Ngài cưu mang trong dạ, khi đến nhà ông Zaccaria và bà Elisabetta. Mẹ Maria đã giới thiệu Đức Giêsu trong bầu khí của gia đình, trong bức thảm dệt của đời thường với niềm vui và nỗi buồn, sự đau khổ, niềm hy vọng, nghi ngờ và tất cả những điều nho nhỏ làm nên ý nghĩa của cuộc sống.

Maria là không gian đón tiếp, gặp gỡ, của cái tôi trở thành chúng ta. Mẹ là gương mẫu của việc trao phó hoàn toàn cho Lời, là ngôi nhà được xây trên đá.

Trong những bản tin mừng, Đức Maria thường được giới thiệu trong bối cảnh của một ngôi nhà. Trong sự kiện truyền tin, sứ thần Gabriele được sai đến nhà Mẹ ở Nazareth. Trọn cuộc gặp gỡ được gói gọn trong hai cực: “Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói...” và “ ... Sứ thần từ biệt Trinh nữ” (Lc 1,28.38).

Trong trình thuật thăm viếng, Luca xác nhận: “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a” (Lc 1,40) và kết luận: “rồi trở về nhà mình” (1,56). Maria mang Con Thiên Chúa vẫn còn ẩn giấu trong cái cụ thể của đời sống gia đình. Và nơi Maria bước vào thì ngôi nhà đầy tràn niềm vui: Bà Elisabeth bật lên lời chúc tụng và Gioan nhảy mừng trong dạ mẹ. Chính Mẹ Maria xúc động và đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, cũng đã cất giọng ca lên bản Magnificat.

Trong khi tường thuật lại việc sinh ra của Đức Giêsu, thánh Matthêu nói về Ba Đạo Sĩ, họ từ phương đông đến Betlem, dưới sự dẫn đường của ngôi sao. “Bước vào nhà, họ thấy hài nhi và Maria, mẹ Ngài” (Mt 2,11).

Chính trong khung cảnh của một ngôi nhà, trong bầu khí gia đình mà Đức Maria đã bày tỏ Con Thiên Chúa cho mọi dân tộc trên thế giới.

Những năm sống mà Đức Maria đã cùng Thánh Giuse và Đức Giêsu trải qua dưới mái nhà Nazareth được đặc nét hoá bởi sự đơn sơ, cần lao và bởi sự khôn ngoan của con tim mà Thánh sử Luca đã vén mở: “Maria gìn giữ tất cả những điều này và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.52).

Tại Cana, mẹ Maria và Đức Giêsu đều có mặt ở nơi cư ngụ của đôi bạn trẻ và dự tiệc cưới của họ. Nơi đây, nhờ sáng kiến của mẹ Maria mà Đức Giesu đã thực hiện “dấu lạ” đầu tiên của Ngài, bằng cách biến đổi nước thành rượu. Chính phép lạ này đã khơi dậy nơi tâm hồn các môn đệ niềm tin vào Đức Giêsu như một Đấng Messia (Ga 2,11).

Dưới chân thập giá, Đức Giesu đã trao phó nhân loại mà Ngài đã cứu độ cho Đức Maria. Ngài muốn mẹ của mình trở thành “mẹ” của tất cả các môn đệ của Ngài. “Và từ giờ ấy, người môn đệ đem mẹ về nhà mình” (Ga 19,27). Gioan, đại diện cho toàn thể nhân loại đã đón nhận mẹ Maria không chỉ dưới mái nhà vật chất của mình, nhưng trong đời sống và trong tâm hồn mình.

Ở khởi đầu của Tông Đồ Công Vụ, Đức Maria cùng với các môn đệ tụ họp trong nhà tiệc ly, ngôi nhà đã chứng kiến tình bạn thâm sâu giữa Đức Giêsu và môn đệ Ngài. Một căn nhà không có sự hiện diện thể lý của Đức Giêsu, nhưng lại đầy tràn bởi Thánh Thần (Tđcv 2,2). Những cửa của căn nhà này đã từng đóng kín vì sợ hãi, nay lại bạo dạn mở tung ra để loan báo Tin Mừng.

Giáo Hội, ngôi nhà hiệp thông mở ra cho mọi người

Chính Đức Giêsu trở thành nhà cho ai sống trong Ngài. Đối những môn đệ đầu tiên được Ngài kêu gọi để bước theo Ngài, những người đã hỏi: “Thưa Thày, thày ở đâu?” (Ga 1, 38b), thì Ngài đã làm họ hiểu rằng chính Ngài là nơi chốn cư ngụ cho họ. Đức Giêsu trở thành nhà cho những ai ở lại trong Ngài: “Các con ở lại trong thầy và thày ở trong các con... Ai ở lại trong Thày thì Thày sẽ ở lại trong người ấy, và họ sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có thày, các con chẳng làm gì được” (Ga 15,4-5). Ở lại trong Đức Kitô cũng có nghĩa là ở lại trong Giáo Hội.

Toàn thể cộng đoàn tín hữu được gắn kết cách mạnh mẽ trong Đức Kitô, là cây nho. Trong Ngài, tất cả chúng ta được hợp nhất cùng nhau. Trong cộng đoàn này, chính Ngài nâng đỡ chúng ta, đồng thời, mọi thành phần cùng nâng đỡ lẫn nhau. Cùng nhau chúng ta chống chọi với giông bão và bảo vệ lẫn nhau. Chúng ta xác tín rằng mình không đơn độc, chúng ta tin rằng mình luôn cùng với toàn Giáo Hội trong mọi nơi, mọi lúc. 17

Thiên Chúa cư ngụ ở nơi nào có sự hiệp thông: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Cho nên, việc cư ngụ trong Đức Giêsu tức là trở thành Giáo Hội, gia đình của Thiên Chúa và nhà cho mọi người, được xây dựng trên phép Thánh Tẩy và được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể: “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su” (Eph 2,19-20).

Trong Tông đồ Công vụ, Giáo hội tiên khởi thường xuất hiện như ngôi nhà, cộng đoàn của lời loan báo đầu tiên và của sự hoán cải. Ngôi nhà vững chắc, nơi đặt làm của chung tất cả những gì mà mỗi người có, và mở ra để chia sẻ với những người nghèo. Giáo hội loan báo lời mời gọi trở thành nhà của ‘bánh’ của Thiên Chúa và do đó, trở thành nhà của đức ái.

Rất nhiều những sự kiện đã được mở ra giữa những bức tường của nhà, như sự kiện của Cornelio, Lidia, Aquila và Priscilla. Đây là một thực tại của “Giáo hội tại gia” (domus ecclesiae), vốn được hiện thực như bước chuyển từ đền thờ đến ngôi nhà, vì ơn cứu độ đã đi vào bức thảm dệt của cái thường ngày, trong khung cảnh của một cuộc sống cụ thể và bình thường. Trong Giáo hội tại gia đó, Lời Chúa được lắng nghe, bữa Tối của Đức Chúa và kinh nghiệm hiệp thông được cử hành. Trong những giáo hội này, người nữ đã giữ một vai trò nổi bật do khả năng kết dệt những mối tương quan, khả năng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ, khả năng kiến tạo sự hài hoà của họ.

Ngôi nhà là địa điểm của sự liên đới, của sự hiếu khách, của lắng nghe, của thấu hiểu. Trong ngôi nhà, những chia rẽ bị loại trừ, những hào rãnh được lấp đầy, và tha nhân được đón nhận như quà tặng. Đây là điều đã xảy ra cho bà Lidia (x. Tđcv 16, 11-15), người mà Tông đồ Công vụ đã giới thiệu như một phụ nữ mạnh mẽ và là leader, đã để mình được Lời Chúa uốn nắn và đã cho phép thánh Phaolo củng cố đức tin mình giữa những tín hữu ở thành Philipphe. Chứng tá về nhà này tìm thấy ý nghĩa trong việc tiếp nhận tin mừng và trong việc mở ra những con đường cho một tân phúc âm hoá.

Valdocco và Mornese: nguồn của ngôn sứ tính

Để hiểu về sự phong phú của chủ đề Tổng Tu Nghị, thì diễn tả của cha Alberto Caviglia có lẽ thật ý nghĩa cho chúng ta. Ngài đã mô tả môi trường ở Valdocco như ngôi nhà, nơi “làn khí của Thiên Chúa” và “làn khí của gia đình” được hoà quyện, tạo nên một bầu khí thánh thiện.18

Ngôi nhà quy tụ chung quanh Thiên Chúa nhu cầu đào tạo người trẻ, và đó là một ngôi nhà mở ra như địa điểm gặp gỡ và bổ xung giữa những con người cho một sứ mệnh chung.

Bối cảnh ngày hôm nay thật khác xa với bối cảnh thời tiên khởi, trong bối cảnh này chúng ta tiếp tục sống niềm đam mê giáo dục duy nhất được phát sinh bởi khát vọng xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin lấy đi và của lời trao gởi Ta trao phó chúng cho con. Chúng ta đối chiếu với cộng đoàn nguyên thuỷ để kín múc niềm hứng khởi cho ngày hôm nay trong chiếu dọi vào viễn ảnh của tương lai. Nó giống như cuộc trở về nhà để tìm lại chính căn tính và những gốc rễ riêng của mình.

Don Bosco đã muốn chúng ta là “đài kỷ niệm sống động”, dấu chỉ của lòng biết ơn của ngài đối với Mẹ Maria, và trở nên như Mẹ, trở thành những “người phù hộ” giữa những người trẻ (x. k.4). Trong tinh thần gia đình, cùng với người trẻ, và sự hợp lực - đồng trách nhiệm với những người đời, chúng ta xây dựng cộng đoàn được bén rễ trên đá tảng là Đức Giêsu, cởi mở với Chúa Thánh thần và với những lời kêu gọi luôn luôn mới của lịch sử.

Cộng đoàn được bén rễ sâu trong Chúa Giêsu

Valdocco và Mornese là những thực tại trong đó Đức Giesu hiện diện cách sống động. Ngài đặc biệt ưa thích những người trẻ và trao phó chúng cho chúng ta để chúng được đồng hành.

Sự hiện hữu của Don Bosco và của những người trẻ trong nhà Valdocco được nâng đỡ bởi Chúa Giesu hiện diện trong Thánh Thể, là trọng tâm mà mọi sự hội tụ về. Don Bosco sống kinh nghiệm này và giáo dục cộng đoàn làm kinh nghiệm về điều này như nguồn của sự hiệp thông và của sự can trường tông đồ. Trong truyền thống Salesien, Thánh Thể và bí tích hoà giải: sức mạnh của biến đổi và trưởng thành kito hữu không thể thiếu trong hành trình nên thánh.19

Sự hiện diện của Đức Giesu là con tim của cộng đoàn Mornese, trung tâm năng động lực, sức đẩy của sự hoán cải và làm chứng. Ở Mornese, người ta sống vì Ngài và tìm cách để làm Ngài được nhận biết và được yêu mến. Các chị em tiên khởi đã được Thánh Thể đào tạo để đồng hoá mình với hiến lễ của Đức Giesu cho Cha, và trong cách thức này, họ trưởng thành trong việc trao ban chính mình trong sự hiệp thông lẫn nhau, trong niềm đam mê giáo dục, trong sự chấp nhận thập giá và trong lời cầu nguyện được sinh động mạnh mẽ bởi sức sống của Giáo Hội.

Trong cộng đoàn này, cả những người trẻ cũng được lớn lên trong chiều sâu đời sống kito hữu đó. Từ Mornese, những ứng sinh như Eulalia và Maria Bosco đã viết cho Don Bosco thế này: “Tâm hồn chúng con tha thiết liên lỷ tìm kiếm Chúa Giêsu và bước vào trong con tim của Ngài, điều này không phải chỉ riêng nơi chúng con, những người cháu của chú, nhưng cả những bạn đồng trang của chúng con và cả sơ mà đang ở với chúng con. Vâng, tất cả chúng con muốn tìm thấy Giêsu thân yêu này và để rồi yêu mến Ngài vô cùng, và yêu cả những người không yêu mến Ngài nữa”. 20

Ngôi nhà, nơi trải nghiệm về gia đình

Với việc thành lập Nguyện xá Valdocco, Don Bosco đã muốn cống hiến cho các thanh thiếu niên của ngài một ngôi nhà, một gia đình chứ không phải một lưu xá. Ngài muốn mọi người biết về gia đình trong một phong cách được đặc nét bởi “sự hoạt bát của cách thức, sinh động của những trò chơi, sự cần mẫn trong những bổn phận được kết nối với một tôn giáo và đạo đức tổng hợp”. 21 Đó là một môi trường thấm đẫm những ý tưởng mạnh và là nơi chốn người ta cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương.22

Sự hiện diện thường xuyên của Don Bosco giữa những người trẻ là sự hiện diện của một người cha sinh động, hướng dẫn và đồng hành. Thánh Luigi Orione, một cựu học viên của Valdocco nhớ lại: «Ngài nuôi dưỡng chúng tôi bằng Thiên Chúa, và nuôi dưỡng chính mình bằng Thiên Chúa, bằng Thần khí của Chúa. Như người mẹ nuôi sống chính mình để rồi có thể nuôi dưỡng chính những đứa con của mình, Don Bosco đã để mình được nuôi dưỡng bởi Thiên Chúa, để cả chúng tôi cũng được nuôi dưỡng bằng Thiên Chúa”.23

Trong môi trường này, mọi người sống trong sự đơn sơ và hồn nhiên. Các luật lệ rất ít, và lương tâm là luật tối thượng.24

Sự hiện diện của mẹ Margherita đóng góp cho ngôi nhà vốn dĩ nghèo nàn và thiếu thốn mọi sự ấy hơi hướm của một gia đình. Với sự hiện diện của người mẹ ấy, ngôi nhà trở nên ấm áp tình người. Sau khi mẹ Margherita mất đi (ngày 25 tháng 11 năm 1856), Don Bosco đã đến Thánh Đường Đức Mẹ An Ủi để cử hành Thánh lễ, và ngài đã thưa với Mẹ Maria thế này: “Con và những đứa trẻ của con đã mất đi người mẹ trần thế. Trong tương lai, xin Mẹ hãy là Mẹ của con và là Mẹ của chúng”.25

Thực sự, tại Valdocco, Mẹ Maria đã ngụ tại ngôi nhà như người mẹ, người hướng dẫn, vị bảo trợ cộng đoàn và người trẻ. Mẹ khích lệ cho sự tin tưởng lẫn nhau, tạo thuận lợi cho những tương quan tin tưởng và đơn sơ.

Những người trẻ cảm thấy như chúng được ở nhà, trong gia đình, và Don Bosco cung ứng cho chúng cảm thức thuộc về bằng việc cho những thông tin mà ngài tin rằng phù hợp để chúng được biết, ngài chất vấn chúng26 và lôi cuốn chúng mở ra cho sự liên đới và với những nhu cầu địa phương.

Trong cộng đoàn Mornese, ngôi nhà “của tình yêu Thiên Chúa” người ta sống tình thương mến và tin tưởng lẫn nhau như trong một gia đình. 27 Trong đời sống của mẹ Mazzarello có một định hướng cơ bản: sống tình yêu và cho tình yêu. Định hướng này cũng là mục đích bền vững mà các chị em nhắm đến: “Mỗi bước đi, mỗi lời nói phải là một hành động yêu mến Chúa và được đi kèm với ý hướng cứu rỗi một linh hồn”.28

Đây là một bầu khí mà trong đó mọi năng lực được cống hiến cho việc giáo dục người trẻ, để làm cho các em trở nên những người thành thạotrong công việc, huấn luyện các em sống như người kito hữu đầy xác tín, và dấn thân trong gia đình cũng như trong xã hội.

Ý hướng Tin mừng hoá ở Mornese và Nizza được nhấn mạnh trong việc chăm sóc các chị em và người trẻ, đồng hành với họ trên hành trình đào luyện với sự thận trọng và với tình mẫu tử.

Cộng đoàn được sinh động bởi mẹ Mazzarello, người chỉ xem mình như “phó nhà của Mẹ Maria”, và thực sự, mẹ Maria là “bề trên thực của nhà”, là đấng khơi hứng và thành lập Tu Hội và mỗi cộng đoàn.29 Mẹ Mazzarello giáo dục các chị em và người trẻ biết tin tưởng hoàn toàn vào Mẹ Maria, và để sống vững chắc dưới sự trợ giúp của Mẹ. Hành vi đặt chìa khoá nhà dưới chân tượng của Mẹ Maria vào mỗi buổi chiều là một diễn tả cụ thể về thái độ này. 30

Sự chắc chắn về sự hiện diện này và chú tâm đào luyện đã góp phần vào việc nhào nặn một cộng đoàn được sinh động bởi đức ái theo khuôn mẫu của trái tim Đức Kito. 31 Cộng đoàn này diễn tả trong cái hàng ngày tình mến giữa nhau, sự khích lệ, tha thứ, ứng xử tế nhị, kiên nhẫn và trong việc “tự do làm những gì đức bác ái đòi hỏi” (T. 35,3). Đó là thứ đức ái bảo đảm cho sự phong phú của hoạt động tông đồ, như Mẹ Mazzarello đã nhắc với các vị truyền giáo tiên khởi: “Mẹ xin các con hãy thật khiêm tốn và bác ái, nếu các con thực tập những nhân đức này thì Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho các con, và những công việc các con làm sẽ đem lại thật nhiều lợi ích” (T. 68,3).

Cộng đoàn bởi cảm hứng truyền giáo

Hệ thống Dự phòng, như lối sống và tương quan giữa người với người, đã đánh dấu đường lối giáo dục của nhà ở Valdocco. Một phong thái gia đình dẫn đến một cộng đoàn gồm các nhà giáo dục, người trẻ và người đời, cùng chia sẻ một sứ mệnh chung ngang qua những vai trò khác biệt và bổ xung lẫn nhau. Những người trẻ được hướng dẫn để đảm nhận trách nhiệm của việc lớn lên như “kito hữu tốt và công dân lương thiện”, để khám phá ra kế hoạch của Thiên Chúa trên họ và trở thành tông đồ giữa những người trẻ khác.

Ngang qua các mối tương quan, sự kính trọng lẫn nhau, tình bạn, niềm vui, lối sống đẹp, văn hoá giáo dục đến đức tin và cảm thức giáo hội, Don Bosco đã đóng góp vào việc xây dựng một xã hội mới, một lối ảnh hưởng hỗ tương mới.

Môi trường Valdocco là một ngôi nhà mở ra độ rộng của tầm nhìn và những kế hoạch, như hệ thống sinh động nó, Don Bosco hoạt động trong một chân trời rộng lớn của việc phúc âm hoá và thắp lên người trẻ những lý tưởng lớn. Các người trẻ được lớn lên từ trường học của một con người can đảm và biết phòng xa, người con của một Giáo Hội cởi mở với những biên cương của thế giới. Đặc biệt sau Công đồng Đại Kết Vaticano I (1869-’70, đã chín muồi nơi ngài kế hoạch truyền giáo, và đã đề ra một bước ngoặt mới cho Gia đình tu sĩ của mình.

Chính những người trẻ trong môi trường này đã được huấn luyện để trở thành những tông đồ. Ngôi nhà ở Valdocco trở thành lý lẽ, thành không gian cho việc gặp gỡ và sai đi.

Cả Tu Hội chúng ta cũng nảy sinh với dự định ưu biệt là giáo dục và truyền giáo. Mornese là một ngôi nhà mở ra cho thế giới, nơi chốn mà người ta hít thở năng động lực truyền giáo nhằm dẫn đến việc làm chứng về Chúa Giesu cho nhưng ai còn chưa nhận biết Ngài.32 Trực giáo của Maria Domenica Mazzarello trong việc tụ họp các thanh thiếu nữ để giúp chúng “nhận biết và yêu mến Thiên Chúa” tìm thấy sự liên tục và tăng triển trong dấn thân giảng dạy giáo lý cách trung thành và thuần thục, được cụ thể trong những hình thái và phương thức sáng tạo, được toả lan từ ý tưởng duy nhất là cống hiến sự đóng góp chính yếu cho việc mở mang Nước Chúa.33

Truyền giáo không được sống như một hoạt động thêm vào của Tu Hội, nhưng nó gầy dựng một yếu tố chính yếu: đó là được nuôi dưỡng bởi niềm vui của chính ơn gọi và bởi sự can trường tông đồ. Tinh thần Mornese không là một tinh thần bó gọn trong “nhà kính”, nhưng là “tinh thần của hoàn vũ”.34

Bầu khí này cũng đã được nhận thức từ các Đấng Sáng Lập đương thời với Don Bosco. Don Giacinto Bianchi, trước khi gởi các nữ tu do ngài thành lập năm 1875 đến Betlemme, đã thấy sự cần thiết để gởi các chị đến Mornese trong một giai đoạn để chuẩn bị trực tiếp cùng với các nữ tu FMA. 35 Mặc dù không có tài liệu nào viết về sự hiện diện của các nữ tu này ở Mornese, nhưng chúng ta chắc chắn rằng cộng đoàn tiên khởi, dù cho còn nhiều giới hạn không tránh khỏi, đã là ngôi nhà của việc đào luyện truyền giáo ngang qua chiều sâu và phẩm chất của đời sống và của những tương quan.

Đó là phong cách cởi mở của tinh thần và của khối óc được diễn tả trong việc học tập, trong việc học hỏi các ngôn ngữ khác, trong việc gặp gỡ với các vị truyền giáo, trong việc tiếp nhận các người đời trong cộng đoàn để chia sẻ với họ sứ mệnh giáo dục trong nhà trường. Tất cả những điều này giúp cho cõi lòng họ vượt qua những biên cương truyền giáo trước khi những biên cương chật hẹp của Mornese được vượt qua. Chỉ vừa 5 năm sau khi thành lập, vào năm 1877, ta đã có thể ghi nhận chuyến truyền giáo đầu tiên khởi hành đến Uruguay.

Don Bosco đã mơ về Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ thế này, đó là một Tu Hội hoàn toàn thuộc về Mẹ Maria, dâng hiến trọn vẹn cho việc giáo dục các trẻ nữ và mở ra cho mọi biên cương trên thế giới. Ngài đã xác nhận việc tái đắc cử của Mẹ Mazzarello năm 1880, và chính tay ngài đã viết trong Biên bản: “Con cầu xin Thiên Chúa cho mọi sự đều được tinh thần của đức ái và của sự nhiệt thành ngự trị, để Hội dòng khiêm tốn này của chúng con được tăng trưởng đông số, hầu mở rộng tại những vùng đất và rồi cả ở những đất nước xa xôi của thế giới.36

Điều kiện nền tảng cho sự mở ra và sống động của việc truyền giáo được bắt gặp trong sự kiện là nơi người FMA có sự hài hoà của cả “đời sống hoạt động và chiêm niệm, rập khuôn cả của Marta lẫn Maria, đời sống của các Tông đồ và đời sống của các Thiên Thần”.37 Chỉ những nữ tu FMA được Thiên Chúa đụng chạm mới có thể trở thành sự hiện diện hiệp thông giữa các chị em và người trẻ, mới là dấu chỉ của hy vọng và của loan báo tin mừng can trường trong những biên cương nghèo khổ của người trẻ.

Đoàn sủng là hồng ân của Thánh Thần ban cho Giáo Hội, là một năng động lực thực tế vốn tăng trưởng trong thời gian và không gian. Được các Đấng Sáng Lập tiếp nhận với sự khiêm tốn và lòng tin, đoàn sủng được sống và được truyền tải qua các thế hệ cho đến ngày hôm nay. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm không chỉ gìn giữ đoàn sủng này, mà còn phải chiếu giãi nó và làm đoàn sủng này được phát triển, bằng việc tìm ra những con đường phù hợp nhất để chia sẻ nó, trong tư cách là cộng đoàn giáo dục và như Gia đình salesien.

ĐÂU LÀ NHÀ ĐỂ TIN MỪNG HOÁ HÔM NAY?

Ngày hôm nay, chúng ta được mời gọi để hoàn tất việc “tô màu... bằng việc phát triển những nét vẽ ” 38 mà Don Bosco và Mẹ Maria Mazzarello đã phác thảo, để đem lại vẻ rực sáng cho những khối mầu cũ bằng những nhát cọ mới. Trong cách thức này, các chị em và người trẻ có thể hít thở một bầu khí tươi mát, vốn cho phép mở rộng buồng phổi, vốn chỉ ra những chân trời mang chở ý nghĩa. Đó là những chân trời vô hạn nhưng lại được suy tư trong những kinh nghiệm đơn sơ có sức khơi lên ước muốn của Thiên Chúa.

Trong những cộng đoàn giáo dục, các nữ tu FMA diễn tả chân tính đoàn sủng đã được các Đấng Sáng lập trực giác và hiện thực, với những màu của hiện tại và của tương lai nếu được đâm rễ sâu trong “mầu nhiệm hiệp thông Ba ngôi”, bằng việc trở thành “dấu chỉ đặc biệt của một hình thức mới của việc sống cùng nhau, được xây dựng không trên huyết nhục nhưng trên sức mạnh của đức tin và trên tình huynh đệ trong Chúa Kitô” (k.36).

Trong hầu hết những kiểm thảo ba năm của các nơi đã cho thấy sự canh tân trong việc lắng nghe Lời Chúa, đồng thời cũng tỏ rõ sự mệt mỏi đáng kể của cộng đoàn do bởi một đức tin cần được làm tăng cường hơn, cần được nuôi dưỡng với nội tâm sâu xa hơn. Một đức tin được soi sáng bởi Lời Chúa vốn trở thành hơi thở của đời sống và bởi linh đạo salesien, được nâng đỡ bởi lối hành xử nảy sinh từ việc ở lại trong Chúa Giesu và mang lại hoa trái (x. Ga 15,5).39

Trong một thời đại mà dường như Thiên Chúa ẩn mặt, thì việc tìm kiếm Ngài chỉ cuốn hút được người trẻ khi chúng nhận ra trong chúng ta có sự tiến bước để đi vào trong mầu nhiệm của sự tương quan mà Cha đã cống hiến cho chúng ta nơi Người Con của Ngài, với sức mạnh của Thánh Thần, dẫu cho còn nhiều vất vả và mờ tối. Những người trẻ có thể bị hấp dẫn đến cuộc gặp gỡ với Chúa Giesu nếu chúng được trải nghiệm cùng với chúng ta về sự nghiêm túc của tính liều lĩnh của niềm tin, và cả cái đẹp và sự sáng tạo của niềm vui.

Những cộng đoàn chỉ là chứng tá cho sự lôi cuốn của việc gặp gỡ với Chúa Giesu khi chúng trở thành không gian của việc tiếp đón, nơi mà việc cầu nguyện được dành một thời gian thích hợp và việc cầu nguyện này phải chạm đến đời sống, là nơi ta tìm thấy một cách thức lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa với người trẻ và với người đời, là nơi thấy được niềm vui của việc cùng làm kế hoạch, làm việc chung và cử hành với nhau.

Đối với các cộng đoàn chúng ta, để cống hiến một hơi thở mới và cởi mở hơn, chắc chắn cần thiết cả việc thay đổi về cấu trúc vốn chạm đến lối sống, thời biểu và những thói quen lâu đời.

Những hành trình hoán cải về với tình yêu mà Tổng Tu Nghị XXII trao cho chúng ta, đã làm đổi mới nơi chúng ta ý thức về lời mời gọi “trở thành hồi ức sống động của cách thức hiện hữu và hành động của Chúa Giesu”. 40 Nó nhắm đến một tiến trình vẫn còn thực tiễn để giúp cho sự tăng trưởng trong đời sống được tin mừng hoá.

Điều ưu tiên là ý chí canh tân tính huyền nhiệm và ngôn sứ của châm ngôn xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin cất lấy trong tinh thần của Hệ thống Dự phòng, bằng việc diễn tả sự khẩn trương việc sống như những môn đệ truyền giáo. Chỉ có một đời sống biết chịu liều lĩnh vì tình yêu như Đức Giesu trong cái hàng ngày và mở ra cho các tình huống nghèo của người trẻ cách can trường, mới hiện thực được dung mạo của người môn đệ truyền giáo, để trở thành bí tích sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tương quan là con đường giáo dục mang tính tin mừng hoá

Trong thực tế giáo dục, cùng với người đời, chúng ta bị chất vấn về tinh thần gia đình mà đôi khi nó rơi vào khủng hoảng của những mối quan hệ chức năng, hình thức, vội vàng mà không thoả cho nhu cầu gặp gỡ và không tạo điều kiện cho việc lớn lên về nhân bản. Chính vì điều này mà chúng ta đặt tầm quan trọng cho việc đào sâu và làm sống động lại linh đạo salesien, một linh đạo được cắm neo mạnh mẽ vào tương quan như con đường của giáo dục, một điều kiện không thể thiếu cho sứ mệnh giáo dục.

Việc trưởng thành những mối tương quan liên vị được nhân bản hoá bao gồm một tiến trình khổ chế, đó là điều có thể được nếu cùng nhau người ta tìm kiếm những điều kiện để cổ võ cho những tương quan chân thực, đơn sơ, có khả năng diễn tả tình yêu của người đã gặp gỡ Chúa Giesu và để cho con tim mình được Ngài biến đổi.

Ngày nay, phong thái tương quan tin mừng có thể dễ dàng đọc ra hơn, cả với những người không có niềm tin. Nó đòi vun trồng một vài thái độ như tinh thần hiền lành vốn dẫn đến việc đón nhận sự khác biệt với niềm vui, sự đơn sơ nghèo khó vốn biết chia sẻ, sự nhận biết những nhu cầu của người khác nơi những ai đói khát sự công chính, tính mềm dẻo của những người chấp nhận thử thách như dấu chỉ của lòng trung thành, sự trong suốt của cõi lòng và của đời sống vốn làm cho lạc quan và nhân từ.

Việc diễn tả sự hiệp thông đời sống trong cái thường ngày của những tương quan “trở thành lời đáp ứng những đòi hỏi sâu xa của con tim nhân loại và biến nó nên tự hiến cho công việc tông đồ” (k.49). Cộng đoàn trở thành ngôi nhà, nơi đào luyện, nơi giáo dục và làm chúng ta lớn lên cách hỗ tương.

Đôi lúc chúng ta cảm thấy mình sợ hãi khi đối diện với người trẻ vì chúng ta không luôn hiểu được ngôn ngữ và những chọn lựa của chúng. Hộ trực salesien, như sự hiện diện giáo dục, sự gần gũi của tương quan và của tình bạn, giúp chúng ta dự cảm được thảm kịch và tính bấp bênh trong cuộc sống người trẻ, điểm yếu của những người trẻ “mồ côi với những cha mẹ còn sống”. Trong thực tế, nhiều lúc những diễn tả của chúng có thể làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng cùng lúc nó bày tỏ những lời xin về ý nghĩa, về sự đồng hành, về tình cảm, ước muốn về một “siêu việt”. Rất nhiều những khẩn nài không được diễn tả, nhưng chỉ cõi lòng của những nhà giáo dục được soi sáng bởi đức tin và bởi tình yêu mới có thể nhận ra.

Chúng ta muốn chuyển tải cho mọi người trẻ niềm vui gặp gỡ Chúa Giesu và nét đẹp của ơn gọi salesien mà chúng ta đã nhận lãnh! Muốn thế, chúng ta hãy khẩn trương đào sâu hành trình giáo dục đức tin, văn hoá ơn gọi và đồng hành với người trẻ, cả khi soạn thảo những chặng đường đặc biệt cho những nhóm tuổi khác nhau, khởi đi từ việc chăm sóc kỹ lưỡng bước đường đã đề ra trong hành trình của mục vụ giới trẻ.

Đây là một công cuộc tập trung sức lực cùng với những người đời của cộng đoàn giáo dục, các bậc phụ huynh và các nhóm của Gia đình salesien, một cơ hội để đối chiếu và làm phong phú đoàn sủng. Điều cần thiết là quyết định tạo ra những điều kiện nhằm thúc đẩy cho việc đồng hành với người trẻ, và cùng nhau khám phá ra kế hoạch của Thiên Chúa trên đời sống của họ.

Môi trường, địa điểm gặp gỡ và trao đổi lẫn cho nhau

Cộng đoàn giáo dục được đồng hoá với “địa điểm gặp gỡ và bổ xung lẫn cho nhau, nơi chốn để giáo dục và được giáo dục, trong sự chú tâm đến cái hàng ngày để tiếp thu những dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa” .41 Những người trẻ sẽ không đến với Thiên Chúa, không đến gặp gỡ Chúa Giesu nếu chúng ta chỉ nói về Ngài. Ngược lại, nếu người trẻ có thể đụng chạm đến Đức Giesu, làm kinh nghiệm về Ngài trong một cộng đoàn sống và chứng tá, và nếu chúng ta cống hiến cho chúng những điều kiện, thì chúng sẽ không chỉ gặp gỡ Đức Giesu, mà chính chúng còn trở thành người biến đổi và loan báo tin mừng trong chính môi trường của chúng.

Cả sự đồng hiện diện của nhiều thế hệ trong môi trường cũng cổ võ và làm phong phú cho cuộc sống và cho cuộc đối thoại liên thế hệ, và nó là sự diễn tả của một bầu khí gia đình, nơi mà tất cả đều có tiếng nói và mỗi người đều đóng góp đặc biệt cho sự hài hoà của cộng đoàn.

Trong cộng đoàn FMA, bổn phận đặc biệt được trao phó cho người sinh động cộng đoàn, được kêu gọi cho việc phục vụ quyền bính trong phong thái tin mừng và salesien, được khơi hứng để điều phối cho sự hiệp thông (x. k. 52. 164).

Những Kiểm thảo về Tổng Tu Nghị XXII và kinh nghiệm của các cuộc thăm viếng của Ban Tổng Cố Vấn cho thấy ngày nay có một sự yếu kém về khả năng sinh động và quản trị, do bởi khuynh hướng độc tài, hình thức của vai trò, cứng rắn, không vững vàng, mỏng dòn, bi quan. Trong khi đó, đường lối lãnh đạo của salesien thì nhìn thấy trước và mời gọi sự tham gia và đồng trách nhiệm của từng thành phần trong cộng đoàn, do đó, mỗi nữ tu FMA trách nhiệm về chính sự trưởng thành của mình và của bầu khí cộng đoàn cũng như bầu khí giáo dục (x.k.50-51)

Sự chú ý đến con người và đòi hỏi của làm việc với não trạng kế hoạch, vốn tạo điều kiện cho việc đồng quy chung quanh sứ mệnh và làm cho việc tổ chức được năng hoạt42 đã không luôn là đường lối của người sinh động cộng đoàn hay nhiều lãnh vực khác nhau của sứ mệnh giáo dục.

Ngày nay, chúng ta đặc biệt được thúc đẩy bởi nhu cầu được lắng nghe, kính trọng và đánh giá sự khác biệt đang nổi lên từ những thực tại đương đại, và do đó chúng ta được mời gọi đến việc diễn tả một mối tương quan hỗ tương, vốn hình thành cõi lòng lắng nghe với sự thông cảm, đến sự phân định, đến sự đối thoại, bằng việc tạo nên những ràng buộc của sự thuộc về và của năng động lực thông tri sâu xa.

Trong kinh nghiệm Ba ngôi, chúng ta kín múc niềm hứng khởi và sức mạnh để sống mô hình vòng tròn của sự tương quan. Nó được bảo đảm bởi sự đơn sơ của người đón nhận và được đón nhận, bởi sự lắng nghe những gì người khác sống và cảm nhận, bởi sự tha thứ, bởi sự chia sẻ về những gì chúng ta là hơn là chúng ta làm, trong khi học biết để trao ban sự tin tưởng vào từng nhân vị, cảm nhận rằng chúng ta cùng được sai đi cho lời loan báo khả tín về sự sống thực sự và tròn đầy, bởi vì đó là tin mừng.

Cộng đoàn giáo dục bao hàm sự thực hiện hoá những kế hoạch được chia sẻ với người đời, trong sự tham dự vào và trong sự kính trọng trước thái độ đồng trách nhiệm và nguyên tắc hỗ trợ trong sứ mệnh giáo dục. 43 Cộng đoàn giáo dục là gia sản quý báu của Don Bosco và của Mẹ Mazzarello đã để lại cho chúng ta, như đường lối tham dự của con người và của tổ chức. Tuy nhiên đường lối này vẫn chưa được thực hiện tròn đầy.

Sự chia sẻ rộng rãi này bắt gặp một không gian ưu biệt trong Gia đình salesien, trong đó sự hiệp lực giữa nhiều nhóm khác nhau trong chính tinh thần tạo nên một sức mạnh to lớn để toả chiếu đoàn sủng trong Giáo Hội và trong xã hội. Tất cả cùng nhau, chúng ta là nhà với người trẻ và cho người trẻ.

Trở nên trung thành với căn tính đoàn sủng có nghĩa là sống triệt để mối tương quan với Chúa Kito, trong cách thức để mọi tác động qua lại của các mối tương quan khác trở nên có phẩm chất, 44 hầu cho cộng đoàn chúng ta thành nhà, nơi người trẻ và đặc biệt những em nghèo hơn có thể sinh lại cho hy vọng và cho tình yêu.

Cùng nhau, để trở thành lời đáp trả cho nỗi mong chờ sâu xa của người trẻ

Trong một nền văn hoá đặc nét bởi sự khủng hoảng nhân học sâu xa và nơi mà Thiên Chúa trở nên xa lạ, thì các cộng đoàn giáo dục trở thành nhà cho những ai không có nhà lẫn không có điểm quy chiếu, dấn thân cho việc thực hiện hoá một sư phạm về môi trường, mở ra cho những biên cương mới của sứ mệnh. 45

Như một giải pháp thay thế cho một hệ thống xã hội thường xuyên đặt nền trên logic của sự cạnh tranh, các cộng đoàn giáo dục được thúc đẩy để đi trên con đường của việc đánh giá sự hỗ tương, của não trạng mạng lưới được diễn tả như sự đồng cộng tác bên trong lãnh thổ địa phương, trong Gia đình Salesien, trong Giáo Hội và đặc biệt, với các Dòng tu khác và những Tổ chức với mục đích giáo dục.

Ngày nay, cuộc gặp gỡ và những tác động qua lại của các mối tương quan trong một sứ mệnh được chia sẻ là dấu chỉ ngôn sứ cho thấy rõ kế hoạch hiệp thông mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người và tất cả mọi dân tộc.

Đây là một bầu khí mà Đức Giesu chọn lựa để loan báo về Cha, có khả năng cống hiến lời đáp trả cho những nỗi mong chờ sâu xa của người trẻ, giúp chúng gặp gỡ Ngài và khám phá ra kế hoạch của đời sống riêng mình.

Trong thực tế của Tu Hội, ta vui mừng xác nhận rằng rất nhiều môi trường của chúng ta dẫu cho còn nhiều giới hạn và dễ vỡ, nhưng chúng đã là những không gian rao giảng tin mừng đích thực. Trong những môi trường ấy, ta tìm cách giáo dục đến đời nội tâm như việc lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa và kín múc từ ánh sáng Lời Chúa những tiêu chuẩn để biện phân và hành động.

Với tình yêu tiên liệu của Chúa Kito Mục tử Nhân lành, trong các nhà của chúng ta đã tiếp nhận những trẻ em và những người trẻ nghèo khổ, người cần thiết hơn. Chúng ta đặt mình bên cạnh những người bị tổn thương trong cuộc sống, tìm để trao ban tiếng nói cho những ai không có tiếng nói, chúng ta lôi cuốn nhiều người và đầu tư sức lực để huấn luyện cho họ có chuyên môn hơn. Tiếng thét gào của người trẻ trong tình huống nghèo khổ thì thật mạnh mẽ, vì thế ta được mời gọi không chỉ để đưa ra câu đáp trả, nhưng còn để chất vấn chính mình trên nguyên nhân của sự nghèo khó và để ngăn ngừa chúng.

Đông đảo các chị em, người đời và cả người trẻ đã cống hiến cho việc giảng dậy giáo lý cũng như sinh động các nhóm đức tin với sự nhiệt tình; tất cả đã nỗ lực trong việc đào luyện nghiêm túc để ngày càng trở nên phẩm chất hơn trong việc loan báo và trong việc làm chứng cho Tin mừng.

Rất nhiều người trẻ xem việc họ trực thuộc vào Phong trào Giới trẻ Salesien và vào Thiện nguyện như kinh nghiệm ý nghĩa của việc trưởng thành trong sự trao ban vô vị lợi và trong niềm tin. Thường họ thực hiện nỗ lực vì Nước Trời qua một chọn lựa trách nhiệm trong lãnh vực giáo dục, lãnh vực xã hội và giáo hội. 46

Những cuộc Kiểm thảo ba năm đã được bao trùm bởi đòi hỏi của một tân phúc ân hoá. Thực vậy, trong Tu Hội chúng ta đã có một ý thức sống động về lời mời gọi mới và khẩn trương để trở thành Tin mừng của Chúa Giesu trong nhiều bối cảnh khác nhau trên thế giới.

Ta công nhận rằng, mặc dù gắng sức và dấn thân, nhưng việc chăm sóc cho khía cạnh loan báo tin mừng của sứ mệnh đã không luôn luôn là một ưu biệt. Sự thiếu đào tạo sư phạm và giáo lý, sự không có khả năng đối thoại với nền văn hoá đương đại và sự yếu đuối hay thiếu vắng những đề xuất của hành trình giáo dục đức tin, chúng thường là nguyên nhân của việc có ít hiệu quả trong sứ mệnh và ít ơn gọi trong một vài môi trường.

Trong những cộng đoàn không thiếu những sáng kiến và những hoạt động mục vụ được thực hiện với những hy sinh to lớn, cùng lúc, ta phải công nhận rằng trong thực tế, đôi lần có sự suy giảm nhiệt tình tông đồ, thiếu sự bền bỉ trong việc đồng hành với người trẻ, và thiếu trung thành trong việc sống với “con tim của nguyện xá” vốn làm cho những môi trường của chúng ta thành không gian loan báo tin mừng, chứ không chỉ là những đề xuất văn hoá, của sự thăng tiến hay tiêu hao thời gian rảnh. 47

Thời điểm chúng ta sống là thời thuận lợi không chỉ vì chúng ta sống trong bối cảnh của Mạng xã hội, nhưng vì Tin mừng còn được giới thiệu trong môi trường số hoá. Ngày nay đây là một mời gọi mãnh liệt phát sinh từ khát vọng xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin lấy đi và thức tỉnh sáng kiến giáo dục trên mọi bình diện. Trong việc đối chiếu với những thách đố văn hoá nổi cộm, chúng ta nhận biết rằng Hệ thống dự phòng là con đường nhân bản hoá và là phong thái tương quan vốn đánh giá sự đóng góp của mọi người, đặc biệt của giới trẻ.

Một cộng đoàn sống và gia tăng kinh nghiệm của lòng tin thì sẽ giúp cho sự gia tăng niềm tin trong các gia đình và làm nảy sinh nơi cộng đoàn kito hữu sự quy chiếu, cả trong những nơi chốn có sự hiện diện của những người trẻ không niềm tin hay thuộc những tôn giáo khác.

Ngày nay, chứng tá về niềm vui của việc gặp gỡ với Đức Giesu và của việc sống trong tình yêu của Ngài như cộng đoàn giáo dục là con đường ưu biệt của việc tin mừng hoá, ngôn sứ của niềm hy vọng cho nhân loại và đặc biệt cho các người trẻ.

Kết luận

Chị em thân mến, mẹ xin kết thúc lá thư triệu tập Tổng Tu Nghị XXIII bằng việc mời tất cả chị em đi vào trong một giai đoạn của kinh nghiệm thiêng liêng mạnh mẽ và hiệp thông với toàn Tu Hội, được thể hiện trong tiến trình chuẩn bị cho sự kiện đoàn sủng này.

Chúng ta hãy kiến tạo trong các cộng đoàn chúng ta một bầu khí thuận tiện cho việc cuốn hút cộng đoàn giáo dục, Gia đình Salesien vào việc cầu nguyện và suy tư trên chủ đề Tổng tu nghị, trong sự đối thoại với các tổ chức khác. Mẹ mong rằng trong việc suy tư này, tiếng nói của người trẻ có một không gian ưu biệt vì với chúng, chúng ta muốn trở thành ngôi nhà tin mừng hoá.

Mẹ mời gọi các Giám Tỉnh và ban Cố Vấn ngài nghiên cứu những cách thức phù hợp hơn cả để đào sâu những chỉ định được đề nghị trong thư luân lưu triệu tập này, để cụ thể hoá đề xuất làm việc trong việc chuẩn bị cho Tu Nghị Tỉnh.

Chúng ta hãy sống thời gian ân sủng này với sự đồng hành của Mẹ Maria, Mẹ là nơi cư ngụ của Thiên Chúa và Ngôi sao của việc tân phúc âm hoá.

Mẹ mời chị em hãy cùng gặp nhau mỗi ngày trong lời kinh phó thác cho Mẹ Maria theo như đề nghị mà Mẹ cống hiến cho chị em. Như Mẹ Maria, chúng ta hãy mở ra để đón nhận trong nhà chúng ta và trong cõi lòng chúng ta sự hiện diện liên lỷ của Chúa Thánh Thần.

Lạy Mẹ Maria Phù Hộ,

chúng con xin trao phó cho Mẹ nỗ lực của chúng con

trong việc cùng với người trẻ

trở thành ngôi nhà tin mừng hoá

cho ngày hôm nay.

Xin làm cho chúng con có khả năng hoán cải canh tân

về với Thiên Chúa,

để sau khi được Ngài tin mừng hoá,

chúng con có thể làm chứng

về nét đẹp của Tin mừng cho những thế hệ mới.

Như Don Bosco và Mẹ Mazzarello,

xin cho chúng con được Lời cứu độ chạm tới,

để chúng con sống niềm say mê

xin cho tôi các linh hồn còn mọi sự khác xin lấy đi”,

hầu chúng con có thể chiếu giãi niềm vui và niềm hy vọng

đến những nơi mà sự bấp bênh làm cho đời sống ra mỏng dòn,

đặc biệt nơi những người trẻ.

Xin Mẹ hãy nâng đỡ Giáo Hội trong sứ mệnh loan báo tin mừng,

để mọi người được gặp gỡ Đức Giesu,

đá tảng của ơn cứu độ;

xin khơi dậy nơi tâm hồn của nhiều người trẻ

ước muốn bước theo Ngài.

Lạy Mẹ Maria,

trong hành trình chuẩn bị cho Tổng Tu Nghị sắp tới,

chúng con khấn xin Mẹ

hãy mở tung cõi lòng của tất cả chúng con

trước hơi thở của Thần khí.

Amen

Cùng với các chị em trong ban Tổng cố vấn, Mẹ thân ái chào các chị em.

Roma, ngày 11 tháng 2 năm 2013

Aff.ma Madre

Suor Yvonne Reungoat


Chú thích

1 x. Thư Luân lưu số 932.

2 x. Thư gởi các FMA ngày 24 tháng 5 năm 1886, trong Phụ Chương Hiến Luật, trg. 224.

3 Chúng ta dùng hạn từ nhà trong ý nghĩa của một cách thức hiện hữu và hiện hữu trong tương quan, nhà cũng nói về một bầu khí nhân bản và thiêng liêng trong sự tin tưởng, trong sự đối thoại liên thế hệ, trong sự lắng nghe và làm phong phú lẫn cho nhau. Hạn từ nhà cũng là phép ẩn dụ của đường lối salesien, đó là chúng ta sống trong một cộng đoàn giáo dục mở ra với địa phương, thế giới.

4 x. Sứ điệp cho Dân Thiên Chúa . XIII, Tổng đại hội Thường Kỳ của Hội đồng Giám Mục , 7 – 28 .10. 2012, số 1.

5 X. Luống cày Giao Ước. Progetto formativo delle FMA, Leumann (Torino), Elle Di Ci 2000, 131-148; Perché abbiano vita e vita in abbondanza. Linee orientative della missione educativa delle FMA, Leumann (Torino) Elle Di Ci 2005, 135-141.

6 Tóm lược Học Thuyết xã hội của Giáo Hội, Città del Vaticano, Libreria Editrice Vaticana 2004, 66-71.

7 Lumen Gentium , n. 6

8 Ngàn năm thứ ba, số 43.

9 x. Benedetto XVI, Diễn văn cho Tu sĩ và những thành phần của Tu Hội Đời và của các Tu đoàn Tông đồ của Giáo phận Roma, 10.12. 2005.

10 Cf Perché abbiano la vita nn. 23-25.

11 x. Benedetto XVI, Bài giảng khai mạc năm Đức tin, ngày 11 tháng 10 năm 2012; x. Tài liệu làm việc cho Tổng Đại Hội Thường kỳ thứ XIII của Hội đồng Giám Mục, số 8.

12 x.Evangelii nuntiandi n. 14

13 Esortazione apostolica post-sinodale Verbum Domini n. 28.

14 Cf Ratzinger Joseph, L’Europa nella crisi delle culture, Conferenza 1° aprile 2005 a Subiaco presso il Monastero di Santa Scolastica.

15 x. Sứ điệp cho Dân Thiên Chúa , số 7.

16 Một truyền thuyết Do thái kể rằng, khi Thiên Chúa quyết định sáng tạo Thế giới, thì 22 chữ cái của tiếng Do thái xếp vòng tròn chung quanh Ngài, chữ này sau chữ kia, chúng nài xin Thiên Chúa rẳng: “Xin hãy tạo dựng một thế giới phục vụ tôi”. Để thuyết phục Ngài, mỗi chữ mang theo những cung cách biện luận khác nhau. Cuối cùng thì Thiên Chúa đã chọn chữ bet ebrai_02. Với chữ này Ngài đã mở ra chương thứ nhất của sách Khởi nguyên. Thực sự, bere’shit (từ ban đầu), là chữ được khởi đầu với chữ cái bet ebrai_02, có hình dạng của cái nhà mở ra. Chữ cái bet ebrai_02 dựa trên chữ ebrai_22ebrai_10ebrai_02 (baît) nghĩa do thái là “nhà”. Betlemme (baît-lehem), chẳng hạn, nghĩa là “nhà của bánh”.

Đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng thật đẹp khi nghĩ rằng Thiên Chúa đã muốn tạo dựng thế giới như một ngôi nhà cho các thụ tạo của Ngài. Thật đẹp khi nghĩ rằng chữ cái đặt ở đầu cuốn Kinh thánh vao gồm trong biểu tượng của nó gợi nhớ lại nữ tính với sự tiếp đón, gặp gỡ, với chúng ta.

17 Cf Benedetto XVI, Omelia all’Olympiastadion di Berlino, 22 settembre 2011.

18 Cf Caviglia Alberto, Opere e scritti editi e inediti di Don Bosco IV 70-71.

19 “La frequente Confessione, la frequente Comunione, la Messa quotidiana sono le colonne che devono reggere un edificio educativo, da cui si vuole tenere lontano la minaccia e la sferza” (Bosco G., Il Sistema preventivo nell’educazione della gioventù, in Don Bosco educatore. Scritti e testimonianze, Roma, LAS 1997, 262).

20 Orme di vita tracce di futuro. Fonti e testimonianze sulla prima comunità delle FMA (1870-1881), Roma, LAS 1996, 167.

21 MB IV 556.

22 Cf MB IV 336-337; MB V 713.

23 Orione Luigi, Conferenza del 17 gennaio 1939, in Parola X, 50-52.

24 Cf MB IV 679.

25 MB V 566.

26 Cf MB IX 569-571.

27 Cf Capetti Giselda, Il cammino dell’Istituto nel corso di un secolo I, Roma, Istituto FMA1972, 122-126.

28 Cronistoria III 104.

29 Cf ivi I 309.

30 Cf Maccono F., S. Maria D. Mazzarello I 310.

31 Cf Orme di vita 345-348.

32 Cf Relazione della prima adunanza delle Superiore (Mornese, agosto 1878), in Orme di vita 239.

33 Mẹ Mazzarello để lại những kỷ niệm cuối cùng cho các chị em: «Giáo lý phải là giáo lý! Các con hãy đào luyện mình cả trong điều này... nếu không sẽ dẫn đến sai lạc tinh thần” (Orme di vita 334).

34 Cf Viganò Egidio, Madre Mazzarello e lo spirito di Mornese, in Non secondo la carne ma nello spirito, Roma, Istituto FMA 1978, 123.

35 Si tratta delle Figlie di Maria Missionarie, cf Porsi Luigi, Don Giacinto Bianchi. Missionario apostolico. Fondatore delle Figlie di Maria Missionarie, Roma, Ed. privata 2000, 66.

36 Orme di vita 318.

37 Costituzioni 1885 XIII, cf Proemio delle attuali Costituzioni, pag. 15.

38 MB XI 309.

39 Cf Nei solchi dell’Alleanza 37.

40 Più grande di tutto è l’amore. Atti del Capitolo generale XXII, Roma, Istituto FMA 2008, n. 37.

41 Cf Perché abbiano vita n. 67.

42 Cf Nei solchi dell’Alleanza 133-140.

43 Cf Perché abbiano vita nn. 58-77.

44 Cf Nei solchi dell’Alleanza 136.

45 Cf Perché abbiano vita n. 23.

46 Cf ivi 124-134.

47Con tim Nguyện xá là sự nhiệt thành, hăng nồng, sẵn sàng dùng hết mọi năng lực, tìm những cách can thiệp mới, khả năng chịu đựng những thử thách, ý chí đứng lên sau mỗi thất bại, vun trồng và lan toả sự lạc quan; đó là sự hăng hái,đầy đức tin và đức ái, là những nhân đức tìm thấy nơi Đức Maria một gương mẫu sáng chói về việc trao ban bản thân” (Carta d’identità carismatica della Famiglia Salesiana di Don Bosco, Roma, Tip. Vaticana, 2012, n. 29).