Đức Maria, người nữ của ánh sáng và của niềm hy vọng.
Chúng ta đang sống một thời điểm được đánh dấu bằng những biểu hiệu của niềm hy vọng, của sự sống mới, nhưng đồng thời bằng cả một khổ đau vĩ đại được trải rộng như cơn sóng của trùng dương. Tại các vùng khác nhau trên thế giới, ngọn lửa của các vũ khí đe doạ rất nhiều dân tộc và bằng những hình thức bạo lực đa dạng vi phạm tới những người bất lực và vô tội. Các thiên tai tiếp tục biểu lộ sức mạnh của nó. Như đại gia đình bao gồm những người con trên khắp thế giới, Tu hội cảm thấy bị đánh động cách thâm sâu và được khát vọng của niềm hy vọng, sự bình an hiện diện nơi những người trẻ và trong các gia đình kiến nghị.
Các chị em thân mến, chắc hẳn trong trái tim của các chị em cũng như của mẹ nảy sinh những chất vấn vốn trở thành những bất ổn: làm thế nào để can thiệp được trong những tình huống này, nhất là khi chúng ta thấy những người trẻ bị lợi dụng làm tay sai cho bạo lực và những người nữ bị nhục mạ, đớn đau vì bị khai thác; khi sự an toàn và phẩm giá của các trẻ thơ bị trù dập; khi những biến cố thiên nhiên hay quyền lực chính trị hủy diệt cả một dân tộc và tiếp diễn tiến trình nghèo hóa thế giới?
Không dễ gì cống hiến một đáp trả cho những chất vấn này và thường lấn chiếm cảm xúc bất lực. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy chống lại bạo lực với sức mạnh của tình yêu, bằng cách chấp nhận cả những hệ lụy. Điều đó có nghĩa là ta hãy nỗ lực để là những biểu hiệu của tình yêu, của ánh sáng, của hy vọng và của bình an trong đời thường.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, Đấng mà trong những cuộc truyền tin khác nhau được Thiên Chúa đề xuất, Mẹ đã là người nữ của ánh sáng, của niềm hy vọng bằng cách sống linh đạo Magnificat trong độ sâu của cõi lòng: từ giây phút thụ thai trong đó mở ra cho mầu nhiệm Thiên Chúa và cho Chúa Giêsu chào đời cho tới Calvariô, tới ngày Phục sinh, tới lễ Hiện Xuống. Những biến cố này đã thay đổi lịch sử thế giới. Chúng ta được mời gọi sống linh đạo Magnificat. Đối với chúng ta, Đức Maria là diện mạo để qui chiếu và là bạn đường trong thời điểm vốn khẩn cầu những biểu hiệu của ánh sáng và của niềm hy vọng.
Maria, nhân chứng của ánh sáng và của niềm hy vọng
Lời mời gọi của Thiên Chúa trong Truyền tin là một ánh sáng trong tâm hồn của Đức Maria. Mẹ là dấu chỉ của một nhân loại mới vốn sản sinh ra Đức Kitô, sống về Ngài và hiến ban Ngài cho thế giới.
Maria đưa chúng ta vào trong lịch sử, bằng cách làm cho lịch sử gần gũi mỗi chúng ta và làm cho chúng ta thắng được mọi hình thức hãi sợ. Tầm nhìn của Mẹ trên thế giới được trải rộng tới tất cả nhân loại và trong mọi tình huống, Mẹ biết nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện. Với sự ngỡ ngàng lớn, Đức Maria khám phá ra rằng thuận lý của Thiên Chúa là chọn những người khiêm hạ và những người nghèo, trong khi Ngài hạ thấp những kẻ quyền thế và kiêu căng (cf Lc 1,52).
Thuận lý này của Thiên Chúa đã đi vào trong cả “nhà” của chúng ta, trong đời sống Salediêng của chúng ta, vì Chúa Cha đã ban cho chúng ta Don Bosco và Maria Domenica Mazzarello: một người chăn chiên đơn sơ của Becchi và một thôn nữ của Mornese nghèo kiến thức.
Thiên Chúa tiếp tục chọn những kẻ bé mọn để thực hiện kế hoạch tình yêu của Ngài. Quả vậy, chỉ ai không tự hào về mình mới để không gian tự do cho hành động của Thiên Chúa và có thể gặp gỡ những người nghèo, những người được Ngài ưu đãi và Ngài đã ủy thác cho sứ mệnh của chúng ta.
Ánh sáng bao trùm Đức Maria toả chiếu cả trong đời sống của chúng ta, nó đong đầy tâm hồn chúng ta, nó làm cho ánh nhìn của chúng ta nên mới, nó mở ra cho niềm hy vọng của một thế giới được canh tân như Người Nữ của Magnificat ngân vang.
Mẹ là người được rao giảng Tin Mừng đầu tiên, là người nhận thứ nhất tin mừng. Qua Mẹ ơn cứu độ được đột nhập vào trong lịch sử, với Mẹ khởi đầu “thời viên mãn” (Gal 4,4). Nhờ Mẹ, Thiên Chúa biến “tang tóc thành lễ hội” (Sal 29).
Thi ca Magnificat cử hành biến cố đã từ lâu đợi chờ này, đồng thời đột xuất và ngỡ ngàng. Trong mọi thế kỷ, biến cố ấy giữ nguyên vẹn sự ngỡ ngàng, niềm cảm xúc sâu xa của giây phút độc đáo ấy. Khoảnh khắc mầu nhiệm ấy vốn là khoảnh khắc của biến cố Truyền tin trở thành nguồn mạch của niềm hy vọng và của ánh sáng mới nơi Đức Maria và nơi Mẹ, qua các thế hệ sau này cho tới chúng ta thường sống trong những thời điểm bị áng mây của sự dửng dưng bao phủ. Đức Maria không cảm nghiệm một mình kinh nghiệm vĩ đại của Tình yêu mà Mẹ được cuốn hút vào trong đó: môt cách tức khắc Mẹ lên đường hướng tới bà Elisabet và với Bà, Mẹ rộn lên niềm vui của Magnificat. Đức Maria là một ngọn hải đăng trên con đường của chúng ta và Mẹ kêu mời chúng ta hãy bắt chước Mẹ khởi hành từng ngày để truyền đạt niềm hy vọng vĩ đại được hứa ban cho những người nghèo, nhất là những người trẻ mà ta gặp với niềm vui.
Hiến luật sống của chúng ta đặt chúng ta vào bên trong thực tại kỳ diệu này và nó động viên chúng ta hãy làm cho “cung cách đức tin, đức cậy, đức mến và sự kết hiệp trọn hảo với Đức Kitô của Mẹ thành của chúng ta và mở lòng chúng ta ra cho sự khiêm hạ vui tươi của “Magnificat”» (C 4).
Các chị em thân mến, Mẹ ước mong sự hiện diện của Đức Maria làm thức tỉnh trong hiện hữu chúng ta niềm hy vọng và niềm vui để với ân sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể là một ánh sáng nhỏ và khiêm tốn có thể làm tái sinh sự sống quanh chúng ta, trong các cộng thể, trong sứ mệnh, trong bối cảnh mà chúng ta được mời gọi sống.
Với ánh nhìn của Đức Maria
TTN XXII thôi thúc chúng ta hãy nhìn thế giới với cặp mắt của Đức Maria. Mẹ dạy chúng ta đừng xa tránh những thách đố nhưng là nhận ra nó như một cơ may để canh tân niềm đam mê giáo dục và truyền giáo, bằng cách làm cho những thời điểm của các con tim rộng mở, của chia sẻ sâu xa giữa chúng ta và những người trẻ trở lại trong các cộng thể của chúng ta, nhờ đó tái tạo những môi trường giàu nhân bản và giá trị kitô giáo (cf Atti 23).
Điều này đòi chúng ta, như Đức Maria – hãy để cho ánh sáng của Chúa đạt tới mọi trạng huống của hiện hữu chúng ta. Đối với cả chúng ta, không phải tất cả đều hiển nhiên trong đời sống thường nhật đâu. Ta đừng ngạc nhiên. Chính Mẹ của Chúa Giêsu đã sống những giây phút ngờ vực. Ánh sáng của Thiên Chúa đã có nơi mình sự sáng tỏ tuyệt đối, nhưng bởi chuyển qua những giới hạn của con người nên không phải luôn dễ nhận thức cách tức thời được, Ngài giữ chúng ta lại trong những tăm tối tức là cần đến kinh nguyện, tìm kiếm và phó thác triệt để cho Ánh sáng này. Điều đó có nghĩa là trước mỗi mời gọi cuối cùng được đáp trả bằng niềm phó thác, bằng một bước nhảy vọt trong niềm cậy trông. Đây là phong cách sống của Đức Maria và tình yêu của chúng ta đối với Mẹ được diễn dịch thành sự noi gương Mẹ trong tấm thảm của đời thường.
Đề xuất đảm nhận một hành trình hoán cải về với tình yêu đã được TTN XXII chỉ định cho mỗi chúng ta và cho toàn thể Tu hội là một kêu mời đi vào trong một tâm thức mới, thứ tâm thức mà Đức Maria đã đón nhận để gắn bó vơi thuận lý của Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta ý thức về lời mời gọi đã được thực hiện với chúng ta.
Thế nhưng, một đón nhận lý thuyết mà thôi không đủ: lời đáp trả phải tìm được tính cụ thể để diễn tả mình trong những cơ hội thường tình của cuộc sống.
Mẹ mời gọi mỗi cộng thể hãy cùng tìm những gì có thể giúp chúng ta thay đổi để luôn trở thành tin mừng với “sắc thái Salediêng” hơn.
Với Thiên Chúa trong lòng và trong cuộc sống ta có thể phóng mình tới những biên cương mới với niềm vui và tái sinh động đoàn sủng tại các địa điểm giáo dục truyền thống vốn là những biên cương luôn mới mẻ của sứ mệnh.
Tâm thức mới được biểu lộ bằng cả những nghĩa cử nhân bản, nhân ái, nhân hậu cụ thể.
Các cộng thể của chúng ta cần đến những biểu hiệu này được trao ban cách hồn nhiên và có lẽ không mệt mỏi, nhưng hữu hiệu để cống hiến những năng lực mới cho thực tại trong đó ta sống. Như thế, khí hậu được hít thở là không khí trong lành, “không khí của Mornese”.
Mẹ được biết nhờ những thông tin của chúng ta là tồn tại nơi mỗi FMA một khát vọng sâu xa: trở về hay kiện cường bầu khí tin tưởng, chấp nhận hỗ tương, vui sướng biết mình được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài tuyển chọn cách nhưng không và như thế thông truyền niềm hạnh phúc thuộc về Ngài. Thiên Chúa xin mỗi chúng ta hãy làm cho mọi chị em, nhưng người trẻ, những người mà Thiên Chúa đặt trong hành trình của chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Ngài.
Nếu một lóe sáng của niềm hạnh phúc soi chiếu các quan hệ của chúng ta, thì nó trở thành một tia sáng cho nhà của chúng ta. Nếu ta biểu tỏ khuôn mặt đích thực và vui tươi của các FMA chân chính, nếu con tim của chúng ta được đốt lên niềm đam mê giáo dục thì những môi trường của chúng ta biến đổi thành những cộng thể ơn gọi.
Tất cả chúng ta tìm cách sống đoàn sủng cách đại lượng, không nề quản hy sinh và mệt nhọc. Thế nhưng, quan trọng là cảnh tỉnh, ngõ hầu những cảnh huống ta sống, sứ mệnh phải là nguồn năng lực luôn được canh tân (cf C 48) không vì lý do duy hoạt mà khiêu khích những hệ lụy có thể biểu lộ thành ơn gọi buồn tẻ, vô tâm trước những giới hạn của các chị em, phản chức năng trên các nhân vị, thất vọng trước những mỏi mệt hay thất bại mục vụ.
Sự chú ý tới những hiện trạng của xã hội và các hiện tượng cuốn hút nó, được thực hiện với tầm nhìn của Đức Maria giúp chúng ta là những con người chính yếu hơn trong đời sống và tái hệ thống những khó khăn tồn tại trong ngày sống của chúng ta để yêu ơn gọi của chúng ta và để say mê loan báo Tin Mừng cho các thế hệ trẻ.
Có thể bớt đi nhiều sự vật, nhưng không thể bớt đi tình yêu cho không được. Chính sứ điệp của Đức Giêsu đã ban mạng sống của Ngài cho nhân loại tặng cách nhưng không. Khi chiêm ngắm tất cả những gì Ngài đã thực hiện cho chúng ta, chúng ta trở thành hồi ức sống động của Tình yêu Ngài. Bằng cách đó chúng ta chứng tỏ mình là những ngọn hải đăng nhỏ vốn cống hiến ánh sáng, vì Thiên Chúa làm cho chúng ta nên những dấu chỉ tình yêu và hy vọng cho những người khác.
Một cộng thể hấp dẫn khi cống hiến niềm hy vọng, vì hy vọng làm nảy sinh niềm hy vọng.
Đối với một sứ mệnh khả tin
Ánh sáng và hy vọng mà chúng ta ban tặng cho những người khác được ánh nhìn của Đức Maria đồng hành, nó có một sự liên lụy truyền giáo vốn truyền ban sức mạnh mới cho các Cộng đoàn giáo dục và mở ra những chân trời mênh mông cho tư tưởng và hành động vốn được soạn thảo và hiện thực.
Đôi khi, cái khó khăn mà ta gặp đó là không biết nhận ra những dấu chỉ của ánh sáng và của hy vọng đã có nơi các nhân vị, trong các tình huống, qua đa dạng diễn tả văn hoá và tôn giáo. Chúng ta có nguy cơ quên hẳn Người nói với chúng ta, ai là Đấng hướng dẫn những vận mệnh của nhân loại.
Các Đấng sáng lập của chúng ta đã biết tiếp thâu nơi mọi thực tại một nguyên nhân để hy vọng, với tính lạc quan kitô giáo và thực tiễn vốn cư ngụ nơi các ngài, được “da mihi animas cetera tolle” đỡ nâng đã ban cho các ngài một nhịp thở hoàn vũ.
Trong Thơ Luân lưu trước đây, Mẹ đã nhận định là có một phần trên thế giới đã nỗ lực thay đổi lịch sử thành tích cực. Vì đã không nhận biết mình như một sự nhỏ bé, nhưng phần nhỏ bé này lại ý nghĩa, năng động trong thực tại vĩ đại này sao?
Chúng ta ỡ giữa những người trẻ với tầm nhìn của tín nhân để hiểu ra thế giới, nhưng cả với con tim khắc khoải của Đức Maria để tiếp thâu các nhu cầu của họ là bạn đường, là tình yêu, là tình bạn; để cảm thông những hãi sợ và bất an và để cống hiến những đáp trả thích hợp.
Với sự ân cần từ mẫu của Mẹ, chúng ta có thể tiếp thâu được tất cả những điều này và để ở giữa chúng ngõ hầu chúng nhận ra được là chúng ta thương chúng (cf Atti CG XXII 24-26).
Sự khôn ngoan giáo dục của Don Bosco nói với chúng ta rằng yêu những người trẻ mà thôi chưa đủ, cần là chính chúng cảm thấy mình được yêu.
Từ đây, tầm quan trọng là tạo nên những môi trường giáo dục trong đó tất cả cùng biểu lộ tình yêu của chúng ta dành cho những người trẻ. Đồng thời, chúng phải tiếp thâu được tình thương vốn có ở giữa chúng ta, vì cả sự biểu lộ này cũng là một chứng từ trong đối chiếu với của chúng.
Là những vị truyền giáo với chính cung cách của Đức Maria, khơi dậy một làn sóng truyền giáo tính vốn lây lan qua chính những người trẻ và trải rộng thành những vòng tròn đồng tâm.
Với những suy tư này, Mẹ cầu chúc các chị em một tháng kính Đức Maria Phù hộ thật sốt sắng và ý nghĩa.
Xin Mẹ đồng hành các chị em trong phục vụ giáo dục của chị em được thể hiện trong các Cộng đoàn giáo dục thật nỗ lực để:
• - là những dấu chỉ của ánh sáng và của niềm hy vọng trong các cộng thể, ngang qua những nghĩa cử nhân bản, theo phong cách tin mừng đã được Đức Maria hiện sinh;
• - như cộng thể, minh chứng niềm vui đã thánh hiến cách triệt để cho Thiên Chúa, bằng cách diễn tả tình yêu nhưng không cho những người trẻ kém may mắn/khao khát niềm hy vọng, ánh sáng hơn;
• ‑ nhận ra những biểu hiệu của niềm hy vọng đã hiện diện nơi các nhân vị (FMA, những người trẻ, những người đời), qua các tình huống, trong lịch sử với đa dạng biểu hiện của nó và biến đổi nó thành cung cách bền bỉ của lòng biết ơn;
• ‑ cổ võ hoặc kiện cường, nỗ lực truyền giáo hoặc ơn gọi với những kinh nghiệm sống, để những người trẻ gặp được Đức Giêsu và đáp trả cách quảng đại kế hoạch mà Thiên Chúa có trên chúng (đc KH 6 năm 3.2).
Mẹ kết thúc bằng tâm tình tri ân các chị em vì lời nguyện và hành trình mà tất cả các cộng thể đã thực hiện trong chuẩn bị Lễ Ghi Ơn trên bình diện thế giới. Mẹ đã nhận được rất nhiều dấu chỉ cụ thể vốn biểu lộ niềm vui đã đốt lên ngọn hải đăng, để là ánh sáng vốn bổ dưỡng Ánh Sáng, trong đồng hành của Mẹ Maria Domenica Mazzarello. Phải chăng đây không phải là tín hiệu tích cực khiến chúng ta vững tâm và nói lên rằng đã có sự sống và ta còn có thể cổ võ nó cách dồi dào không?
Vậy: can đảm lên, ánh sáng còn rọi chiếu!
Chúng ta hãy tiến bước với niềm hy vọng bằng cách tiếp thâu những cảnh nghèo không như cản trở, nhưng như không gian nơi mà cùng với Đức Maria ca lên bản Magnificat. Khó nghèo, tình yêu, vui tươi cùng tiến bước!
Ngày 24 tháng 5, Mẹ sẽ ở Turin trong Đền thờ. Ở đó Mẹ sẽ nhớ tới tất cả chị em trước nhan Đức Maria Phù hộ và Mẹ sẽ phó thác sự thánh thiện của Tu hội cho Ngài, nài van Ngài sai nhiều ơn gọi mà Giáo Hội, và thế giới trẻ của các châu lục cần tới.
Xin Thiên Chúa chúc lành và làm cho các chị em cảm nhận được lòng biết ơn và tình mến của Mẹ dành cho các chị em.
Roma, 24 aprile 2011
Thân ái, Mẹ
Sr. Yvonne Reungoat