Thư số 1046: Một sự thánh thiện sản sinh sự sống với một con tim truyền giáo
Không có file audio
Các chị em rất thân mến,
Mẹ vui mừng đến với các chị em trong tháng hai này, và cùng với các chị em, mẹ cảm tạ Chúa vì kết quả tốt đẹp của các cuộc Kiểm thảo Ba năm mà chúng ta đã cử hành cho đến nay với các Hội nghị Trung Đông-Châu Âu (CIME), Châu Phi và Madagascar (CIAM), với Hội nghị của các Tỉnh dòng Ấn Độ (PCI) và với Hội nghị Đông Á (CIAO). Những cuộc gặp gỡ này cho phép chúng tôi nhận biết và hiểu rõ sát hơn về sức sống của đoàn sủng Salêdiêng tại ba châu lục. Một lần nữa, chúng tôi đã trải nghiệm sự hiệp nhất của Hội dòng và căn tính đặc sủng rõ ràng trong kinh nghiệm hàng ngày về “cái đã có và cái chưa có”, mà nhờ ân sủng, giúp duy trì ước muốn sống và cùng nhau thực thi vì Chúa và vì Vương quốc của Người.
Trong thư luân lưu này, mẹ muốn dừng lại trên nhân vị và sự thánh thiện của Chân phước nữ tu Maria Troncatti, người mà chúng ta cử hành mừng kỷ niệm sinh nhật trong tháng này (Corteno Golgi - Brescia, 16/2/1883), trong khi chờ đợi ngày phong thánh của sơ.
Mẹ muốn cùng chị em đào sâu diện mạo phong phú của nhà truyền giáo này như một người Mẹ, Nhà truyền giáo, Nghệ nhân của hòa bình và hòa giải. Đây là thời gian ân sủng đặc biệt đối với tất cả chúng ta, một lời mời gọi canh tân chính mình như một Hội dòng để với lòng can đảm và niềm vui, tiếp tục hành trình thánh thiện mà ngày nay Chúa xin chúng ta dõi bước.
Trước hết là Mẹ
Trong tương quan giáo dục, mỗi cộng đoàn giáo dục được mời gọi đảm trách một nền sư phạm tin mừng bước theo Chúa Kitô và nhập thể đặc sủng Salêdiêng. Những người trẻ đang chờ đợi các chứng nhân có khả năng đề xuất những hành trình khai tâm đến các giá trị nhân bản và Kitô giáo lớn lao, cùng những mô hình sống khả tín. Đây chính là phong cách đồng hành mà Maria Domenica Mazzarello đã trải nghiệm, một sinh động viên khiêm tốn và khôn sáng, người mà xuyên qua tình mẫu tử của mình, mẹ đã sản sinh sự sống nơi những người được ủy thác.
Cả nơi sơ Maria Troncatti, chiều kích mẫu tử cũng hiển hiện cách minh nhiên, đã sản sinh dồi dào sự sống xung quanh sơ và tìm thấy nguồn mạch trong sự gắn kết mật thiết sâu xa với Chúa.
Chúng ta có thể mô tả sơ Maria như một người phụ nữ hạnh phúc, say mê Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu. Bí quyết sự hiến dâng vô điều kiện của sơ nảy sinh từ kinh nguyện liên lỉ, từ việc dừng lại trước Thiên Chúa trong thinh lặng của màn đêm và ánh bình minh; từ việc để trái tim mình được đong đầy bằng Tình yêu của Ngài. Trong ngày sống, sơ tiến bước với chuỗi hạt trên tay, sơ phó thác cho sự che chở của Đức Maria, Đấng Phù Hộ và Hướng dẫn sơ trong mọi hoạt động, trong những khoảnh khắc vui tươi, hy sinh hay nguy hiểm. Sơ không biết mệt mỏi trong việc phục vụ những người nghèo, các trẻ thơ, các bệnh nhân và những người thất vọng, những người Shuar thân yêu "của sơ". Với sự trìu mến và tình yêu của một người mẹ, sơ hiến mình cho nhân loại bị tổn thương đặc biệt trong rừng sâu Ecuador, để minh chứng tình yêu của Thiên Chúa dành cho tất cả con cái của Người. Chính những người da đỏ Shuar đã gọi sơ một cách trìu mến madre-cita, nghĩa là “mẹ”. Trên thực tế, họ thấy sơ luôn ân cần đi bước trước đến gặp gỡ những ai cần sự giúp đỡ và hy vọng. Sơ chăm sóc thể lý và tinh thần qua việc loan báo tin mừng trong khi phân phát thuốc men và lời khuyên khôn ngoan và sáng suốt. Họ gọi sơ từ rất xa đến để chữa trị, ủi an và giúp đỡ những người hấp hối. Cả một tên sát nhân cũng muốn được chuẩn bị để xưng tội và chết cách tốt lành, muốn được sơ Maria ở bên cạnh mình cho đến phút cuối cùng, xác tín rằng sự hiện diện của sơ sẽ ngăn chặn ma quỷ đặt anh trong sự tuyệt vọng. Sơ Maria viết thư cho thân nhân trong sự ngạc nhiên: «Giá như anh chị em nhìn thấy họ yêu thương tôi như thế nào! Khi họ thấy tôi lên ngựa, họ nhắc tôi: “Mẹ ơi, Mẹ trở về sớm nhé!””».
Với lòng kiên nhẫn của người mẹ, sơ dạy người bản địa và những người định cư, những nhóm luôn xung đột hãy tha thứ cho nhau.
Trong những khoảnh khắc khó khăn nhất, đó chính là ánh nhìn hướng về thánh giá đã nâng đỡ sơ và ban cho sơ lòng can đảm cần thiết để đối diện sự mệt mỏi hàng ngày, với đức tin và phát huy cách năng động sự sáng tạo của mình.
Ngày 25 tháng 8 năm 2019, trong thông điệp nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày sơ Maria Troncatti từ trần, Mẹ Yvonne Reungoat đã viết: «Ta có thể nói rằng sơ là một phụ nữ tiên phong, một FMA ngôn sứ, đã sống những đòi hỏi của việc hội nhập văn hóa với sự nhạy bén và trực giác của các thánh, bởi việc hội nhập văn hóa là vấn đề của tình yêu và ai yêu mới biết nắm bắt, thích nghi và làm cho mình trở nên thân cận, gần gũi».
Với tình yêu mẫu tử này, sơ chinh phục được các cõi lòng và tìm ra một giải pháp cho mọi vấn đề, mà không bỏ cuộc trước những khó khăn. Sức mạnh tình mẫu tử của sơ được bộc lộ cả trong những tình huống khẩn cấp hoặc đặc biệt nguy hiểm, chẳng hạn như khi sơ tha thiết cầu nguyện để "những đứa con của sơ" được cứu khỏi những con sóng nguy hiểm của dòng sông Upano mà sơ biết rõ những mối nguy hiểm đó. Sơ không bao giờ mất niềm tin vào Chúa quan phòng, vì sơ tin chắc vào sự hiện diện của Chúa Quan Phòng, vì sơ đảm bảo về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời truyền giáo của mình. Được củng cố bởi sự chắc chắn này, sơ không ngần ngại can thiệp vì lợi ích của "những đứa con Shuar" của mình. Sơ thực hiện những cử chỉ đơn giản và hiệu quả của người mẹ: sơ chào đón các trẻ thơ mà không một ai muốn, sơ trao tặng cho mọi người tình cảm, sự an toàn và thanh thản, sơ trở thành nhà giáo dục và giáo lý viên, bằng cách mở ra những triển vọng tương lai được thắp sáng bởi hy vọng.
Một trong những khía cạnh ý nghĩa nhất trong tình mẫu tử của sơ là mối tương quan đầy niềm tin trìu mến với Đức Maria Phù hộ. Nơi trường của mẹ, sơ học biết sớm nhận ra rằng bản thân sơ có thể là “người phù trợ” cho những người được trao phó cho sơ. Nơi sơ, lòng hiếu thảo đối với Đức Maria không chỉ là một cảm xúc, nhưng được sống cách ý thức như một lộ trình đào tạo kitô giáo và salêdiêng, vì vậy, nó được biến đổi thành nguồn mạch của tình mẫu tử giáo dục theo phong cách của Hệ thống Dự phòng.
Chúng ta biết rằng bản chất của ơn gọi salêdiêng là đặc tính mẫu tử, không bị chi phối bởi những nguyên tắc trừu tượng, mà bởi các nhu cầu thiết yếu của con người, tôn trọng các nhịp điệu cá nhân của từng người; một tình yêu mẫu tử tế nhị và trìu mến, nhưng cương nghị và dứt khoát. Sơ Maria đã là như thế trong cuộc đời truyền giáo của mình với tư cách là FMA.
Mẹ xin gợi nhớ những gì Don Bosco để lại như một thông điệp cho các con cái của ngài: «Trong các điều kiện của cha, không có phương tiện, không có nhân sự, thì sẽ không thể làm việc vì lợi ích của giới trẻ, nếu không có Đức Mẹ Phù Hộ đến cứu giúp bằng sự soi sáng đặc biệt và sự nâng đỡ dồi dào, không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần» (MB XI, 256-257). Chúng ta hãy đón nhận những lời này như một sự chuyển trao mà hôm nay, Đấng Sáng Lập của chúng ta cũng gửi đến chúng ta, các nhà giáo dục salêdiêng nam/nữ, để trao phó sứ mệnh giáo dục loan báo tin mừng của chúng ta cho Đức Maria, trong ý thức rằng, như Mẹ đã làm đối với Don Bosco và sơ Maria Troncatti, thì chính Mẹ cũng là Đấng hướng dẫn chúng ta, trợ giúp chúng ta, giữ tầm nhìn chúng ta luôn rộng mở hướng đến những thực tại mới với 1 con tim truyền giáo và ngôn sứ.
Nhà truyền giáo
Chiều kích truyền giáo là yếu tố cốt yếu trong căn tính của Hội dòng (x. K. 75). Nó khởi đi từ Bí tích Rửa tội của chúng ta, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ chúng ta: «Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này, và đó là lý do tại sao tôi có mặt trong thế giới này» (Evangelii gaudium, 273). Ngay từ đầu, cộng đoàn tiên khởi ở Mornese đã trải nghiệm niềm vui truyền giáo đã định hướng để họ làm chứng cho Chúa Giêsu không chỉ trên quê hương của mình mà còn trên toàn thế giới. “Sự huyền nhiệm” của việc sống chung nở rộ trong nhiệt tình hướng tới những chân trời rộng lớn và trở thành một bầu khí, một ngọn lửa bùng cháy, tỏa sáng và tỏa hơi ấm. Ở đây chúng ta nắm bắt được động lực loan báo tin mừng nhưng cũng mang tính nhân văn của sứ mệnh: sự sống lớn lên và trưởng thành tùy theo mức độ chúng ta cống hiến nó cho sự sống của người khác. Từ đây vọt trào niềm vui dịu dàng và cổ võ cho việc loan báo tin mừng.
Năm 1922, sơ Maria Troncatti hiện diện tại cộng đoàn Nizza Monferrato với vai trò là y tá chuyên nghiệp của Hội Chữ thập đỏ, cựu chiến binh của thế chiến thứ nhất 1915-1918. Tại bệnh xá dành cho các thiếu nữ, thiếu nữ Marina Luzzi đang hấp hối vì bệnh viêm phổi kép. Sơ Maria trao phó cho cô giấc mơ truyền giáo của mình để mang đến cho Đức Maria Phù Hộ: “đi giữa những người bệnh phong”. Trong cơn hấp hối, thiếu nữ nói tiên tri rằng sơ sẽ không đến với những người phong hủi, nhưng sẽ đến Ecuador. Quả thực, ba ngày sau khi Marina qua đời, Mẹ Caterina Daghero đã gửi sơ đến sống giữa dân làng trong rừng Amazon của Ecuador.
Để hiểu được tinh thần đam mê truyền giáo của sơ Maria, thật thú vị khi chúng ta đọc những gì sơ viết cho gia đình vào năm 1936, trước khi sơ lên đường sang Ecuador: «Cha mẹ bảo con đừng xin đi truyền giáo à? Con không xin, bởi vì con muốn làm theo thánh ý Chúa. Nhưng nếu các bề trên sai đi, con đi với tất cả cõi lòng: tư tưởng của con luôn hướng về truyền giáo». Với tất cả cõi lòng đã là thước đo niềm đam mê truyền giáo của sơ đến nỗi, khi Mẹ Tổng quyền gửi sơ đi làm việc ở rừng rậm Amazon, sơ khẳng định rằng ơn gọi tu sĩ và truyền giáo của sơ «mỗi ngày được hạnh phúc hơn» Trong một lá thư năm 1939, sơ viết: «Tôi sẽ tâm sự với bạn một điều: ở đây với những người bản xứ, tôi thấy mình rất hài lòng; nhiều hơn là ở trong thành phố Guayaquil giữa giới quý tộc. Ở đây, giữa khu rừng này, xa rời mọi lời dối trá của thế gian …».
Chúng ta thấy nơi sơ Troncatti khả năng nhìn thấy điều cốt yếu, lắng nghe và đáp lại tiếng kêu của những người nghèo, vì lý do này, sơ ước muốn đi ra khỏi các khuôn mẫu của sự sung túc, các cơ cấu cứng nhắc và an toàn. Trong bài giảng lễ phong chân phước diễn ra ngày 24/11/2012 tại Macas (Ecuador), Đức Hồng y Angelo Amato đã nêu bật tinh thần truyền giáo của sơ rất rõ: «Sơ Maria, được ơn thánh thúc đẩy, đã trở thành sứ giả không biết mệt mỏi của Tin Mừng, một chuyên gia của lòng nhân đạo và là người am hiểu sâu sắc về trái tim con người. Sơ đã chia sẻ những niềm vui và hy vọng, những khó khăn và nỗi buồn của anh em mình, cả lớn lẫn nhỏ. Sơ đã thành công biến lời cầu nguyện thành lòng nhiệt thành tông đồ và phục vụ người khác một cách cụ thể».
Chúng ta có thể khẳng định rằng sơ đã sống “vado io”, nét tiêu biểu ở Valdocco và Mornese, với sự quảng đại hào phóng và sự cống hiến hết mình, từ đó khơi dậy "vado io" của Juan, người đã chết cách hạnh phúc vì đã cứu mạng sơ Maria khỏi sự nguy hiểm rợn rùng của dòng sông Upano.
Trong tạp chí Gioventù Missionaria năm 1931, sơ Maria đã kể lại Hệ thống Dự Phòng đã đem lại những thành quả biến đổi trong lòng giới trẻ và người dân Shuar: «Đã 15 tuần qua, chúng tôi đã đến kivari của hai Kivaria gần nhất mỗi tuần một lần để mang ánh sáng chân lý vĩnh cửu vào bóng tối và nâng đỡ những tâm hồn khốn khổ bị tàn phá, đồng thời mang đến cho họ sự cứu trợ về thể lý vốn có thể và cấp thiết nhất. Họ đích thân đến đón chúng tôi tại nơi cư trú để cùng chúng tôi vượt qua những chặng đường khó khăn và giúp chúng tôi băng qua con sông Upano nổi tiếng. Một phần được lội qua bằng xuồng và một phần trên vai của chính những người kivari, những người cảm thấy vinh quang trong sức nặng ngọt ngào!».
Trong thời kỳ đại dịch hoành hành, đặc biệt là đại dịch đậu mùa rất nghiêm trọng, không chừa một ai, người Kivaretti tội nghiệp, sơ "bác sĩ" đã không ngừng tận tụy chăm sóc người bệnh và người đang hồi phục sức khỏe. Tổ chức có năng lực và tầm nhìn xa, dành cho những phụ nữ trẻ có năng khiếu, các khóa học điều dưỡng; các khóa học may vá khác, vệ sinh, chăm sóc trẻ em, nghệ thuật ẩm thực và các buổi học tập chuẩn bị kết hôn. Mối quan tâm chính của sơ là đào tạo và thăng tiến cho những người phụ nữ, trong văn hóa Shuar, thường bị trừng phạt vì phụ thuộc vào chồng-chủ, hoặc bị bóc lột cho những hoạt động công việc mệt nhọc nhất, mà không quan tâm đến sứ mệnh làm mẹ và chăm sóc con cái của họ.
Những gì Don Bosco nói cũng có tác động đến nơi đó trên thế giới: «Để những người trẻ không chỉ được yêu thương mà chính họ cũng biết rằng họ được yêu thương», đến độ họ được biến đổi “từ sói thành chiên”, nhất là nhờ lòng nhân hậu và sự hiến mình, chính họ có khả năng hy sinh mạng sống mình cho các nhà giáo dục của mình.
Sơ Maria Troncatti, say mê với sứ mệnh salêdiêng, đã truyền cảm hứng cho dân làng và chính các chị em của mình bằng cách lan tỏa tình yêu thương lớn lao của mình dành cho giới trẻ, để họ được hạnh phúc trong hiện tại và vĩnh cửu. Sự táo bạo và lòng can đảm về đức tin của sơ cũng nuôi dưỡng nơi những người trẻ lòng cam kết trở thành “những nhà truyền giáo thực thụ”. Chúng ta có thể nói một cách đúng đắn rằng cộng đoàn nơi sơ Maria làm việc là một cộng đoàn “đi ra” thực sự, sống sứ mệnh theo phong cách hiệp hành!
Nghệ nhân của hòa bình và hòa giải
Trong 47 năm cuộc đời truyền giáo, sơ Maria chỉ có một mục tiêu duy nhất: giúp mọi người gặp gỡ Chúa Giêsu; thực vậy, sơ khao khát “dâng hiến Ngài cho các linh hồn”. Trong khi chăm sóc các vết thương cho những cơ thể bị tra tấn của những người Shuar, họ giết hại lẫn nhau nhân danh luật rừng, tức là trả thù, sơ tìm mọi cách để có thể nói với họ về sự tha thứ, về sự hòa giải và về Tin Mừng. Với lòng dũng cảm và quyết tâm không thể diễn tả được, sơ hành động để bảo vệ quyền lợi và triển vọng tốt đẹp của người bản địa khi những người định cư áp bức họ. Tuy nhiên, sơ quan tâm đến cả tất cả mọi người mà không phân biệt và giúp họ sống huynh đệ với nhau hơn. Sơ đối thoại và khuyên những người phụ nữ thuộc địa để gieo vãi giữa dân làng những lời nhân ái, công bằng, tình huynh đệ và bình đẳng, vì sơ biết rằng, thông qua sức mạnh giáo dục của các phụ nữ, chúng ta có thể đào tạo các thế hệ tương lai sống chung với nhau một cách tôn trọng hơn và đón nhận sự khác biệt. Sơ làm việc không biết mệt mỏi trong các trường học và trường nội trú các thiếu nữ Shuar và các thiếu nữ "da trắng" sống hòa thuận với nhau.
Tại các phòng khám nơi sơ làm việc và bệnh viện “Piô XII” do sơ thành lập, không có phương pháp điều trị riêng biệt như ở những nơi khác.
Đối với sơ, mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc nhận được sự chăm sóc từ madrecita-mẹ và cộng đoàn của sơ.
Với sự sáng tạo, sơ Maria cũng học cách dệt vải để may quần áo cho những người có nhu cầu nhưng trên hết là để dệt nên những cử chỉ nhân đạo và hòa giải giữa "những đứa con của mình", rất được yêu thương nhưng cũng rất khác biệt.
Vào cuối những năm 1960, căng thẳng giữa hai nhóm dân tộc gia tăng do vấn đề sở hữu đất đai và bầu khí thù địch lại bùng phát trở lại. Vào ngày 4/7/1969, một số người thuộc địa đã đốt phá cơ sở truyền giáo của dòng salêdiêng vì họ tin rằng dòng đứng về phía người Shuar và là những người thúc đẩy phẩm giá của họ. Sơ Maria rất đau khổ vì chuyện này và lo sợ rằng đây có thể là khởi đầu cho một thảm họa khác.
Đúng vào khoảnh khắc đó, sơ đã có nguồn cảm hứng, được khơi dậy từ trái tim của người mẹ, để hiến dâng mình cho Chúa như một hiến lễ của sự hòa giải giữa hai dân tộc mà sơ vô cùng yêu thương. Sơ không tìm thấy khả thể nào khác có thể giúp sơ gần gũi hơn với Chúa Giêsu: «Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình» (Ga 15, 13). Với sức mạnh thuyết phục và lòng nhân ái, sơ Maria đã ngăn chặn được mối thù mới nảy sinh và được lắng nghe như một sứ giả của hòa bình và sự tha thứ. Trong sự hỗn loạn chung bao trùm toàn bộ nơi truyền giáo, khi tin đồn sai sự thật lan truyền rằng các nhà truyền giáo đang tổ chức lừa đảo gây tổn hại đến Kivari được trao phó công tác giáo dục, sơ Maria không để mình nản lòng: sơ đi qua các ngôi nhà, ở Macas, để "nói bằng trái tim" với mọi người mà không che giấu những giọt nước mắt cay đắng chân thành, đến nỗi những kẻ đã phạm tội ác cảm thấy có bổn phận phải sửa chữa.
Hơn một tháng sau đó, khi chuẩn bị rời đi Quito để tham dự tuần tĩnh tâm năm, vào ngày 25 tháng 8 năm 1969, ngày xảy ra vụ tai nạn máy bay, sơ Maria đã chia sẻ với các nữ tu sự xác tín của mình rằng hòa bình và sự tĩnh lặng sẽ sớm trở lại. Quả vậy, sau khi sơ mất, cả những người thuộc địa và người Shuar đều cảm nhận sâu sắc hơn sự hiện diện của madrecita-người mẹ của họ, người đã dạy họ cách tha thứ và họ lấy lại sự chung sống với nhau bằng một sức mạnh mới của tình huynh đệ. Một cầu vồng vẫn còn trên bầu trời cho đến lúc chôn cất sơ và là dấu hiệu cho thấy hòa bình đã được tái thiết giữa trời và đất và giữa hai dân tộc.
Khi chiêm ngưỡng khuôn mặt tuyệt đẹp của Hội dòng – Thánh Maria Domenica Mazzarello, sơ Maria Troncatti sắp được phong thánh, các Chân Phước và các Đầy tớ Chúa của chúng ta đã sống Hiến luật cách trọn vẹn – hãy mở lòng chúng ta đón nhận niềm hy vọng vĩ đại, với ân sủng và sự can đảm đến từ Thiên Chúa. Với lòng biết ơn, chúng ta ca lên bản Magnificat vì sự thánh thiện được Giáo hội công nhận nơi những chị em này và rất nhiều chị em khác đang sống kinh nghiệm trong cuộc sống thường ngày, bằng cách trao ban tình yêu, hy vọng và niềm vui.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ chúng ta rằng sự thánh thiện không chỉ được thực hiện bằng một vài cử chỉ anh hùng, mà bằng nhiều tình yêu thương được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Các thánh là bạn đồng hành của chúng ta, những người đã sống sự thánh thiện bằng cách ôm ấp ơn gọi của mình với lòng nhiệt thành và do đó, họ đã trở thành phản chiếu rạng ngời của Chúa trong lịch sử (x. Omelia, 15/5/2022).
Chúng ta hãy phó thác cho Đức Maria Phù hộ, để cả chúng ta, cùng với các cộng đoàn giáo dục và nhiều người trẻ mà chúng ta gặp gỡ, có thể tỏa chiếu như những ánh sáng nhỏ trong cuộc sống hằng ngày và trở thành dấu chỉ tình yêu tiên liệu và thương xót của Chúa Cha, như sơ Maria Troncatti đã là.
Tổng Tu nghị salediêng lần thứ 29 đã khai mạc ngày 16 tháng 2 vừa qua và trong lời chào mừng thay mặt toàn thể các chị em tại lễ khai mạc, mẹ đã hứa rằng chúng ta sẽ đồng hành với các công việc của TTN bằng lời cầu nguyện, tình thương mến và sự trân quý. Việc bước đi cùng nhau của họ trong sự hiệp thông sâu sắc là một dấu chỉ mạnh mẽ của niềm hy vọng cho Gia đình Salêdiêng, cho Giáo hội, cho Hội dòng chúng ta và cho những người trẻ trên toàn thế giới. Xin Đức Maria Phù hộ, Don Bosco và các thánh của chúng ta hướng dẫn và nâng đỡ họ hướng đến tương lai với lòng can đảm và tầm nhìn xa.
Mẹ chúc các chị em tiếp tục sống Năm Thánh tốt đẹp; ước nguyện đây thực sự là thời gian ân sủng và hoán cải để tiếp tục con đường thánh thiện chung của chúng ta với con tim truyền giáo.
Roma, 24.02.2025
Thân ái, Mẹ