Maria - Mẹ và Bà giáo: Những đề nghị theo truyền thống của thánh sử Gioan

Giáo dục – nguyên ngữ La tinh educere, “kéo/đưa ra ngoài” – là nghệ thuật “làm nổi bật lên “nhân cách” của con người từ thâm sâu hiện hữu mình. Trong lãnh vực của quá trình giáo dục này, có sự hiện diện của Đức Maria không? Mẹ có cộng tác trong việc giáo dục cho sự phát triển nhân cách của chúng ta và làm cho ta nên giống với Thiên Chúa không? Đâu là mặc khải dung mạo của Chúa Kitô?

Sr. Maria Marchi – nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù hộ - giáo sư của Phân khoa Giáo dục Auxilium – đã khẳng định rằng: Đức Maria, trong tư cách là nhà giáo dục, là một sự hiện diện “cần phải được khám phá. Mẹ là chủ thể tích cực và không thể thay thế được trong việc giáo dục của mỗi kitô hữu và mỗi con người. Cho dù nhà giáo dục và các đối tượng giáo dục biết hay không. Nhưng ‘có những sự thay đổi’  và thay đổi rất nhiều, khi nhà giáo dục cũng như các đối tượng giáo dục khám phá ra được sự trợ giúp từ mẫu này của Đức Maria, họ có thành công trong việc nhận ra và phó thác cho sự trợ giúp này để tìm thấy con đường ‘kinh tế’ hơn (nghĩa là nhanh hơn hoặc chắc chắn hơn) để  làm cho mình nên đồng hình dạng với Người Con?”.1

Tôi phải chân nhận rằng lời khẳng định này làm cho tôi không ít ngạc nhiên. Sr. Maria Marchi đã phát biểu như sau: “Cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (cf. Lc 23,31).

Để có thể thoát ra khỏi ngỏ cụt  này, điều cần thiết phải bắt đầu lại từ Thánh Kinh. Trải dài trong suốt sứ điệp của Thánh Kinh, tôi nghĩ rằng tiếng nói của Thánh sử Gioan cho chúng ta những chỉ dẫn xác đáng cho đề tài này. Chúng ta có thể tóm tắt như sau giáo lý của thánh sử Gioan. Như nữ tử của Israel, Đức Maria đã được giáo dục trong niềm tin của dân tộc mình. Mẹ trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ là người được Đức  Giêsu giáo dục, nhưng mặt khác Mẹ cũng giáo dục Chúa Giêsu sống trọn vẹn cái chết của Ngài khi tuân hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Hơn nữa, trên đồi Canvê, Con Thiên Chúa đã đặt Đức Maria làm Mẹ của các môn đệ, và của tất cả những ai đang đảm nhận trách nhiệm làm mẹ và nhà giáo dục.

Tôi sẽ triển khai đề tài này trong năm bước, năm thời điểm xảy ra được sắp xếp như sau: (1) Đức Maria, “Mẹ” hoàn vũ của những môn đệ của Chúa Giêsu, (2) Đức Maria, “nhà giáo dục” của tất cả những ai bước theo Chúa, (3) Đức Maria, người “được Chúa Giêsu giáo dục”, (4) Đức Maria, “được giáo dục” bởi Israel – dân tộc của Mẹ, (5) Đức Maria, ‘nhà giáo dục’ Đức Giêsu?  

1. Đức Maria - “người Mẹ” hoàn vũ của những môn đệ Chúa Giêsu

Sứ mệnh ‘là nhà giáo dục’ của Đức Maria đối với mỗi người chúng ta có tính nền tảng và tính hợp pháp của nó vì Đức Maria là “Mẹ” thiêng liêng của tất cả nhân loại. Ở đây, tôi muốn nói đến chứng từ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo Thánh Gioan (Ga 19,25-27), trên thánh giá, trong cơn hấp hối, Con Thiên Chúa đã nói với Mẹ của Ngài: “Hỡi Bà, đây là con Bà”, rồi Ngài nói với môn đệ: “Đây là Mẹ con”.

Bước chuyển giao này đặc biệt quan trọng. Nói đúng hơn là nó khởi tạo nên tiền đề không thể thiếu được cho đề tài của chúng ta. Tôi giả thuyết nó quan trọng cho tất cả những chú giải của bản tường thuật Tin Mừng này.2 

1.1. Lời của Chúa Giêsu (Gv 19,26-27a)

Trên đồi Canvê, gần bên thánh giá Chúa Giêsu, có Mẹ Ngài, ba người phụ nữ  (chị của mẹ, Maria vợ ông Cleofa, Maria Magdala), và người môn đệ Chúa Giêsu yêu (Ga 19,25). Một truyền thống kitô giáo cổ xưa, khoảng cuối thế kỷ thứ hai, đã đồng hóa người môn đệ này với vị tông đồ và là thánh sử Gioan.3 Trông thấy Mẹ Ngài, Chúa Giêsu nói: “Hỡi Bà, đây là con Bà”. Rồi Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”. (Gv 19,26-27a).

Đó là những lời mang tính nhân văn của Con Thiên Chúa đang hấp hối. Ngài biết rằng, đã đến giờ phải lìa bỏ Mẹ Ngài trong cảnh hoàn toàn cô đơn, vì Giuse, vị hôn phu của Mẹ đã qua đời. Vì vậy, trong tâm tình đầy thương xót của một người con, Đức Giêsu muốn trao gửi Mẹ Ngài cho sự chăm sóc và che chở của người môn đệ trung thành hiện diện dưới chân thánh giá. “Hãy thờ kính cha mẹ”, điều răn thứ tư trong mười điều răn (Dnl 20,12; Lv 19,3). Đức Giêsu là Đấng tuân giữ trọn vẹn luật cựu ước. Ngài chu toàn giới răn cũ khi chăm sóc mẹ của mình trong giây phút Ngài cận kề cái chết trên thánh giá. Lúc này, Ngài mặc khải mình là “con của con người’, có nghĩa là Ngài tham dự vào thân phận con người như chúng ta. Trong nhiều trường hợp những người bệnh thập tử nhất sinh (đặc biệt khi tuổi họ còn trẻ), những lời cuối cùng họ căn dặn, trao gửi lại cho những người thân thiết hơn: “Bạn vui lòng chăm sóc những đứa con của tôi…”,  chúng ta thường nghe những lời này nơi những người làm cha làm mẹ, khi họ biết mình không qua khỏi trong những cơn bệnh nặng hay trong những hoàn cảnh đau thương khác nhau của phận người.

Vượt trên những cảm xúc xót thương của những người con, trong những lời kế tiếp của Chúa Giêsu, có một sự lưu tâm sâu xa hơn phát xuất từ trái tim và tâm hồn của Đấng Cứu Độ trần gian. Như một nhà chú giải - Đấng mạc khải vẹn toàn của Chúa Cha (Gv 1,18), như người phát ngôn viên tràn đầy Thánh Thần (Ga 3,34), Chúa Giêsu đã trao ban một mặc khải kép, một cho Mẹ của Ngài và một cho người môn đệ. Ngang qua Đức  Maria, Ngài mạc khải rằng tất cả những người tin vào Ngài, mà đại diện là môn đệ dưới chân thánh giá ở Canvê, họ là con của Mẹ (“Đây là con của Bà”). Với người môn đệ, Đức Giêsu tỏ cho biết Đức Maria là mẹ của anh (“Đây là mẹ của anh”?). Vì thế, tình mẫu tử của Đức Maria mở rộng ra cho một chiều kích hoàn vũ. Từ chỗ là Mẹ của Chúa Giêsu, Ngài trở thành mẹ thiêng liêng của tất cả môn đệ của Chúa Giêsu trong mọi thời gian và không gian.

Nhờ ân huệ của cách giải thích mang tính “Giáo hội học” lời di chúc này của Chúa Giêsu, việc chú giải kinh thánh đang đưa ra ánh sáng những đề tài khác nhau rút ra trực tiếp-từng chữ của chính bản văn. 4

Ví dụ, cái gọi là “lược đồ của sự mặc khải” được nói đến trong vv, 26-27a. Được nói đến như mẫu hành văn được các tiên tri sử dụng, khi các ngài muốn chuyển tải một ‘mạc khải’, hoặc một sứ điệp rất quan trọng trong những dấu chỉ -kế hoạch của Thiên Chúa.5 Thánh sử Gioan đã nhận ra dàn ý này và ngài đã phân chia thành ba thời điểm với những hạn từ: “Nhìn thấy” – “Nói” – “Giới thiệu: Đây là”.6

Trong những thuật ngữ dễ hiểu hơn: a. Một tiên tri – là con người được Thiên Chúa mời gọi và được soi sáng bởi Thần Khí Ngài, “nhìn thấy” một người khác; b. Với người họ gặp, họ “nói”, hoặc gửi đến một sứ điệp, một lời mạc khải liên quan đến vai trò mà Thiên Chúa muốn trao phó cho người đó trong chương trình cứu độ; c. Vị ngôn sứ định rõ vai trò này với trạng từ “Đây là”, theo sau đó là một tước hiệu liên quan đến vai trò của người Thiên Chúa đã chọn.  Đặt lại tương tự trong bối cảnh cứu độ, động từ “nhìn thấy” của vị ngôn sứ bao hàm tầm nhìn vật lý của đôi mắt, nhưng trên hết là một “ánh nhìn thấy trước ”, “ánh nhìn vượt lên trên” sự vật - sự việc, tôi muốn nói đến sự tự quan sát và phân tích nội tâm (phương pháp nội quan) được Chúa Thánh Thần ban cho.

Trong Tin mừng theo thánh Gioan, lối hành văn này được sử dụng bốn lần (Ga 1,29; 1,35-36; 1,47; 1,26-27a). Chúng ta phát họa lại hai đoạn: đầu tiên và cuối cùng trong bốn tường thuật này.

Trong đoạn thứ nhất, Gioan Tẩy giả như một hướng dẫn viên. Ông thấy Chúa Giêsu đang đi về phía mình, ông nói với đám đông: “Đây Chiên Thiên Chúa” (Gv 1,29). Chúng ta lưu ý rằng Gioan Tẩy giả là một ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến, vì trong ân sủng của Thánh Thần, ông đã mạc khải Đấng Messia cho dân Israel (Gv 1,6.31.33). Như một ngôn sứ, ông đã nhìn Giêsu thành Nazareth và mạc khải cho những người hiện diện: Đấng ấy là Chiên Thiên Chúa, như muốn nói rằng Đấng Messia sẽ phải chịu đau khổ để tẩy trừ tội lỗi của thế giới.

Đoạn cuối là tường thuật Đức Maria dưới chân thánh giá trên đồi Canvê (Ga 19,26-27a). Đức Giêsu nhìn thấy Mẹ Ngài, và nói với Mẹ: “Hỡi Bà, đây là con của Bà”. Rồi quay về phía người môn đệ và nói: “Đây là mẹ của anh” . Chúng ta biết rằng trong Tin mừng thứ tư, Đức Giêsu là ngôn sứ của Chúa Cha (Gv 4,19.44; 6,14; 7,40; 9,17), được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa (Ga 1,32.33; 3,34). Trong sức mạnh là ngôn sứ của Ngài, Chúa Giêsu mạc khải cho Mẹ của Ngài rằng tất cả tín hữu ở trong Ngài, được đại diện nơi người môn đệ hiện diện trên đồi Canvê, họ cũng là những người con của Mẹ. Với người môn đệ, Ngài cho ông biết Đức Maria là mẹ của ông.

“Mẹ đồng trinh, nữ tử của Người Con”, thi sĩ Dante Alighieri đã hát lên như thế.7 Những lời của thi sĩ có thể áp dụng cho tường thuật trên đồi Canvê. Nơi đó, Người Con tác tạo nên người Mẹ! Thật vậy những lời của Chúa Giêsu “là Thần Khí và Sự Thật” (Ga 6,63). Lời Ngài tràn đầy sức mạnh thần linh là chính Chúa Thánh Thần, Lời “tạo nên” điều “nó nói”. Hệ quả là, Đức Maria được gọi là “Mẹ” thiêng liêng của người môn đệ, và môn đệ được gọi là “người con” thiêng liêng của Đức Maria.

Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã dạy: “Với những lời trăn trối này, Đức Giêsu đã tạo nên lòng sùng kính Đức Maria trong Giáo hội, nơi đó giúp chúng ta hiểu […] thánh ý của Ngài là Đức Maria đón nhận mỗi người môn đệ , như là người mẹ dạy họ biết về Chúa Giêsu, một tình yêu con thảo chân thành. Điều quan trọng của lòng sùng kính maria luôn được Giáo Hội mong ước, được gợi hứng từ những lời công bố của Chúa Giêsu trong giờ hấp hối trên đồi Canvê.8

Sau khi đã hoàn tất sự trao gửi hỗ tương này giữa Đức Maria và môn đệ, Đức Giêsu biết rằng “bây giờ tất cả đã hoàn tất để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 19,28). Như vậy lời trăn trối ấy là cần thiết để cho ‘tất cả’ sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Giêsu được hoàn tất, trong sự thành toàn. Nếu giả như, Đức Giêsu không loan báo những lời ấy, có thể sẽ thiếu đi những gì rất quan trọng trong việc hoàn thành chương trình cứu độ được mạc khải trong Kinh Thánh.

1.2. Câu trả lời của người môn đệ  (Ga 19,27b)

Đâu là câu trả lời của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến trước lời trăn trối của Thầy mình trong giờ hấp hối? Thánh sử viết: “Kể từ giờ đó, môn đệ đón Mẹ về éis tà ìdia”, nghĩa là đón mẹ về  “trong sản nghiệp riêng” của mình, được trích theo bản văn gốc tiếng Hy Lạp. Chúng ta thấy có sự hiện diện của một thành ngữ cần được làm sáng tỏ cách rõ ràng, nó được lưu tâm không ít trong dòng chảy của Giáo hội về ý định của Chúa Giêsu, trong lúc Ngài phải bỏ thế gian mà về cùng Cha (Ga 19,25-27). Chúng ta phân tích cách rõ ràng vài điểm của cụm từ éis tà ìdia.

1.2.1. Sự đóng góp gần đây của chú giải kinh thánh

Về câu Tin mừng Ga 19,27b mà chúng ta đã trích dẫn, nảy sinh một sự chất vấn, hiểu như thế nào về “sản nghiệp riêng” ( tà ìdia), trong thực tế đó, người môn đệ được Chúa yêu đón nhận Mẹ Maria? Trong câu hỏi này, giáo sư Ignazio De la Potterie (giáo sư Đại học giáo hoàng về Kinh Thánh ở Roma và là chuyên viên nghiên cứu về các sách của thánh sử Gioan) xuất bản năm 1974 một bài viết dài và thú vị.9 Sự lập luận của ông, phần nào đó nhằm tranh cãi một điểm của nhà chú giải Loviano Frans Neirynck (1979).10 De la Potterie đã trả lời với một bài viết thứ hai có nội dung rộng hơn bài thứ nhất (1980).11 Đối đáp lại một cách trực tiếp, Neirynck (1981) phản biện lại những lập trường của De La Potterie.12

Cuộc tranh luận giữa hai học giả nhằm làm sáng tỏ danh tiếng, đã để lại một loạt những tư tưởng đã được nghiên cứu và đào sâu trên câu Tin mừng Ga 19,27b, mà nó đã làm khơi dây nên sự tán thành vô điều kiện  từ phía các nhà chú giải và thần học khác. Mặc dù có một vài điểm bút chiến gây tranh cãi, nhưng dường như De la Potterie và Frans Neirynck đã đạt đến một sự thống nhất thiết yếu.

Trọng tâm luận điểm của De La Potterie, đã dần trưởng thành sau những phản bác  ngày càng gia tăng từ phía Neirynck, có thể tổng hợp như sau.13 Ông đã lấy điểm khởi đầu là những bước trong Tin mừng thứ tư, trong trường hợp dùng đến số nhiều trung lập ‘tà ìdia’ (“sản nghiệp riêng”). Trong những đoạn này, ông cho biết trước Thánh sử Gioan dùng thuật ngữ ‘tà ìdia’ để ám chỉ một ‘sự thuộc về – quyền sở hữu’  mang tính luân lý – tôn giáo – thiêng liêng, với một ý nghĩa rộng và đặc nét nhân vị tính. Điều đó cũng đúng với thế lực sự xấu là Thần dữ, với Đức Kitô và với những người môn đệ.

a. Thế lực sự xấu (Satana)cũng có “sản nghiệp riêng” của nó(tà ìdia).Từ những điều đó, thánh Gioan đã nói:“Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối”.(Gv 8,44). Điều làm nên “sản nghiệp riêng” của nó là sự gian dối, đối nghịch với Đức Kitô là Sự Thật :"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.”(Gv 14,6). Và cũng như thế đối với “thế gian” (trong những điều trái nghịch với Đức Kitô), những gì thuộc về Satan và sự xấu, và “thế gian yêu thích những gì thuộc về nó” (Ga 15,19).

b. Đức Kitô- Ngài có ‘sản nghiệp riêng’ của Ngài(ità ìdia).Đó là: dân tộc Israel (Ga 1,11) do chính Người tác tạo (Ga 1,10) và đã trở thành dân riêng của Thiên Chúa qua giao ước Sinai (Xh 1,5, Tv 135,4); các tông đồ Ngài đã tuyển chọn, họ là của Ngài và thuộc về Ngài (Ga 10,4).

c. Cuối cùng Gioan đề cập đến “sản nghiệp riêng” tà ìdia  của các môn đệ (Ga 16,32 và 19,27b)

Trong Ga 16,32, “sản nghiệp riêng”, là nơi chốn mà khi các môn đệ bị phân tán. Đó là nơi đầu tiên, với những vị trí địa lý có thể khác nhau, các tông đồ tìm đến nương náu sau khi chối và bỏ rơi Chúa Giêsu trong hành trình khổ nạn; Nơi đó họ ẩn nấp vì sợ người Do Thái (cf Ga 20,19). Nhưng ở một mức độ cao hơn, De la Potterie viết: “những lời này […] ám chỉ sự sụp đổ niềm tin của họ, sự tan rã của tình hiệp nhất trong Chúa Kitô, sự rút lui của mỗi người trong “những sở thích riêng của mình”, họ không còn là những môn đệ của Chúa Giêsu, mà chỉ là nô lệ cho chính cái tôi của họ”.14 Đây chính là sở hữu của tất cả những ai tách mình ra khỏi Đức Kitô để tìm kiếm những gì không thuộc về Ngài: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán”, Đức Giêsu đã nói như vậy (Lc 11,23).

Dựa trên những phân tích này, chúng ta tìm thấy ý nghĩa trong Ga 19,27b. “Sản nghiệp riêng” (tà ìdia) mà trong đó người môn đệ đón nhận Mẹ của Chúa Giêsu, không thể chỉ đồng hóa với  “nhà”, với “nơi chốn vật chất” mà tông đồ Gioan đón nhận Đức Nữ Trinh, nhằm đáp trả lời trăn trối của Thầy mình. Nơi chốn ‘vật lý’ này vốn thuộc về “nhà” thật sự nơi Gioan sống và là sở hữu của ông, ý nghĩa này không thể loại trừ  ra khỏi cung điệu văn phong của bản văn Gioan. Trái lại, nó là giả thiết và ngụ ý. Tuy nhiên, có một ý nghĩa phong phú hơn và mang đậm tính thần học – thiêng liêng vượt ra khỏi căn nhà vật chất đơn giản, nơi đó người môn đệ đón Mẹ của Chúa Giêsu về.

Vượt lên trên ý nghĩa đầu tiên này - hiển nhiên nó là nền tảng, thánh sử còn cho chúng ta hiểu rằng người môn đệ đón Mẹ Maria trong một căn nhà “mầu nhiệm-thiêng liêng”. Đó là căn nhà của “niềm tin và sự kết hiệp mật thiết với Đức Kitô”. Chính Đức Giêsu đã nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Như vậy ‘khoảng không gian nội tâm và thiêng liêng’ và ‘môi trường của sự sống’ này tạo nên đặc nét sự hiện hữu người môn đệ được yêu mến như môn đệ của Thiên Chúa. Trong ánh mắt của người môn đệ, Mẹ của Chúa Giêsu đã là một trong nhiều “sự tốt lành luân lý và thiêng liêng” mà Gioan nhận được như gia sản thừa kế từ Chúa Giêsu, Thầy và là Chúa của ông (cf Ga 13,13). Nếu cho đến giây phút này, Đức Maria chỉ là “Mẹ của Chúa Giêsu”, thì từ Giờ ấy (trong ý nghĩa mầu nhiệm vượt qua), ngài trở nên ‘Mẹ của người môn đệ” mà Gioan là đại diện cho tất cả môn đệ. Trong tất cả ý nghĩa đó, người môn đệ nhận biết và tiếp đón Mẹ của mình trong sự tôn trọng ý định của Chúa Giêsu.15

De La Potterie kết luận rằng, những nhà phê bình hiện đại không tiếp nhận đúng giá trị hoặc tầm quan trọng của câu Tin mừng Gioan, phần lớn họ dịch là: “Từ lúc ấy, người môn đệ đón bà về nhà mình” (Ga 19,27b). Thật quá ít! Một cách dịch làm yếu đi ý nghĩa bản văn tin mừng. Vì thế De la Potterie đề nghị một cách dịch khác: “môn đệ đón bà về giữa những điều tốt của mình”.16  Tiếp theo đó, ông ta cũng lưu ý rằng ông muốn nói đến những gia tài hoặc điều tốt lành thiêng liêng và không chỉ là một ‘ngôi nhà vật chất’, ông thích dịch ‘đón bà về trong căn nhà nội tâm của mình’.17

Về phía F. Neirynck, ông không loại trừ trong câu Ga 19,27b khả thể ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Tuy nhiên điều này giả thuyết và đòi buộc điều thiết yếu trước tiên là một căn nhà vật chất, nơi đó chính người môn đệ đã đón Mẹ của Chúa Giêsu về.18

1.2.2. Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc” của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II (25.3.1987)

Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”  cho ta thấy  Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong luồng tư tưởng của những nghiên cứu thần học về câu Tin mừng Ga 19,27b vào những thập niên trước, Ngài đã thâu nhận những chiều kích cân bằng hơn. Chủ yếu ngài công nhận thuật ngữ tà ìdia của thánh sử Gioan như một “căn nhà vật chất” và là “căn nhà thiêng liêng”. ĐTC đã xác định trong số 45 của thông điệp: “Trong khi phó thác chính mình với tình con thảo cho Đức Maria, người Kitô hữu, như tông đồ Gioan, đón nhận Mẹ về giữa “sản nghiệp riêng” và đón Mẹ vào trong tất cả khoảng không của đời sống nội tâm, nghĩa là là trong chính hiện hữu của mình - là người và là kitô hữu: người môn đệ đưa Mẹ về với mình”.19

Hơn nữa, một cách chính xác, ở điểm ghi chú số 130 viết như sau: “Như đã lưu ý, trong bản văn hy lạp, cách diễn tả ‘eis tà ìdia’ vượt qua ý nghĩa giới hạn của việc người môn đệ đón nhận Mẹ Maria trong một nơi chốn vật chất và sự tiếp khách nơi nhà của mình. Nhưng đúng hơn, là một sự hiệp thông đời sống nối kết cả hai con người trong sức mạnh mà Đức Giêsu ban cho: cf S. Agostino, In Io an.Evang.tract. 119,3: CCL 36,659: ‘Gioan không đưa Mẹ về ở trong các trang trại của mình, bởi vì ông không sở hữu cái gì cho riêng mình, nhưng là giữa những bổn phận mà ông gắn bó và lưu tâm với tất cả sự dâng hiến của mình’”.20 Lời chú giải ở cuối bản văn này rất quan trọng , nó công nhận rằng ý nghĩa đầy đủ của tà ìdia trong Ga 19,27b đòi hỏi một ngôi nhà kép, vật chất và thiêng liêng.

Một ngôi nhà vật chất. Thật vậy, Đức Thánh Cha viết rằng “lối diễn tả eis tà ìdia vượt xa ý nghĩa giới hạn của một sự tiếp nhận Đức Maria từ phía người môn đệ chỉ trong ý nghĩa nơi chốn vật chất và sự tiếp khách”. Diễn tả như thế, ĐTC không loại trừ rằng trong câu Ga 19,27b muốn nói đến một nơi trú ngụ vật chất, một môi trường địa lý. Thật vậy, trong thông điệp này, Thánh Tông đồ Gioan được trình bày như là người “đảm nhận việc chăm sóc Mẹ của người Thầy yêu quí”.21 Hơn nữa, trong bài giảng vào ngày 13 tháng 5 năm 1982 ở Fatima, ĐTC Gioan Phaolo II, đã nói về tông đồ Gioan như ‘người bảo trợ dưới thế Mẹ của Thầy mình [...] nơi nhà ông ở”.22

Một căn nhà thiêng liêng. ĐTC tiếp nhận chiều kích thứ hai này – rất quan trọng – trong khi nhớ đến sự giải thích đa dạng để chuyển dịch câu l’esi tà ìdia của Ga 19,27b.  Nhưng cách giải thích dễ hiểu và sâu sắc hơn tất cả, ĐTC Gioan Phaolo II đã trích dẫn trong thông điệp Redemptoris Mater, số 45: một sự hiệp thông đời sống “trong tất cả khoảng không gian của đời sống nội tâm,  nghĩa là là trong chính hiện hữu của mình - là người và là kitô hữu”.

Tuy nhiên, bên cạnh sự  giải thích này, cũng có những giải thích ngắn gọn và xúc tích hơn, nhưng không kém giá trị giáo huấn. Những giải thích này đã được ĐTC  trích dẫn trong những giáo huấn trước và sau thông điệp Redemptoris Mater, nơi đó ĐTC khuyến khích các tín hữu đón nhận Đức Maria khi nói “trong cuộc sống cá nhân”,23 “trong trái tim chúng ta”,24 “trong trái tim và trong cuộc sống chúng ta”,25 “trong nhà của cuộc sống chúng ta, trong niềm tin, trong những giới hạn – khiếm khuyết và trong những quyết tâm của chúng ta”,26 “trong những […] vấn đề, những khó khăn, […] của mình hay của người khác”. Trong những vấn đề của các gia đình, của xã hội, quốc gia và của toàn thể nhân loại”,27 “trong căn nhà vật chất và căn nhà nội tâm của các linh mục”.28

Sự khó nhọc nghiên cứu của những học giả đã tìm thấy sự tán thành thật sự thân ái trong giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II.

Lưu ý khi nhớ đến những điều được viết trong Hiến chế Dei Verbum, đã được công đồng Vaticano II công bố vào ngày 8/11/1965 như sau: “Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Giáo Hội được chín chắn” (n.12).29

Tóm lại, giữa “sản nghiệp riêng”, nơi đó người môn đệ được yêu đón Mẹ của Đức Giêsu, trước hết là ngôi nhà “vật chất” – nơi trú ngụ địa lý thật sự và là sở hữu của môn đệ, là nơi mà Gioan đã tiếp đón, chăm sóc và bảo vệ Đức Maria mà Chúa Giêsu đã trao phó cho ông. Một truyền thống cổ muốn giải thích rằng Gioan có lẽ phải đón Đức Maria về ngôi nhà mà ông có ở Giêrusalem – thành phố nơi Đức Maria sống những ngày cuối và qua đời ở đó.

Có một ngôi nhà “thiêng liêng”, nơi đó Gioan đã dẫn Mẹ của Chúa Giêsu vào. Đây là nhà của đức tin và của sự kết hiệp mật thiết với Đức Kitô. Thật vậy: trong chính ngôi nhà tạm mầu nhiệm này, người môn đệ đón nhận Đức Maria. Trong ánh mắt được soi sáng bởi Thần Khí, Mẹ đã tạo nên một trong những nhiều điều tốt lành luân lý-thiêng liêng mà Gioan đã nhận được như gia sản từ tình yêu của Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa của ông (cf Ga 13,13). Nói cách khác: Đức Trinh Nữ  đã trở nên cho Gioan một “trong những điều riêng tư” của ông, nghĩa là trở nên một trong những gia sản thiêng liêng, một trong những giá trị tích cực của đời sống đức tin của người môn đệ.

Đây là một tiền đề thiết yếu cho đề tài của chúng ta về tầm quan trọng “giáo dục/đào luyện” của Đức Maria cho mỗi người nam nữ trong thế giới chúng ta – những môn đệ của Đức Kitô.

2. Maria, một “người mẹ” giáo dục

Nếu Đức Maria là “Mẹ” của chúng ta, giả thiết rằng Mẹ có vai trò “sinh hạ” trong chúng ta con người mới (cf Ef 4,24). Trong một vài cách thức, Mẹ cộng tác vào việc “hạ sinh” trong chúng ta hình ảnh của Đức Kitô (cf Gal 4,19), nghĩa là can thiệp vào việc sinh ra từ trong thâm sâu nhân vị của chúng ta “tên gọi mới”  đã nhận được từ Đấng Hằng Sống - Đức Kitô Phục sinh (cf Cv 2,17).

Tài liệu “Vun trồng giao ước”, xuất bản năm 2000 của Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ, đã bình luận: “Chiều kích Maria là thiết yếu trong đời sống kitô hữu chúng ta (cf Ga 19,26-27) […]. Trên đồi Canvê Mẹ đã đón nhận người môn đệ như đại diện Chúa Kitô. Trong vai trò đó Mẹ được mời gọi để giáo dục, để đưa ra ánh sáng chân tính sâu xa nhất nơi mỗi người con, mà Thiên Chúa Cha đã thông ban trong Đức Kitô nhờ bởi Chúa Thánh Thần. Mẹ với tư cách là mẹ và nhà giáo dục, cộng tác vào việc hình thành trong mỗi người chúng ta hình ảnh của Đức Kitô (cf Gal 4,19)  được ghi khắc nơi tất cả từ lúc tạo thiên lập địa”.30

Tuy nhiên: trong cách thức nào và bằng những con đường nào, Đức Trinh Nữ Maria hiện thực hóa sứ mệnh “là mẹ-nhà giáo dục” của ngài?

Câu hỏi thì dễ hiểu, nhưng nó đòi một câu trả lời mà cần lưu ý đến nhiều khía cạnh của niềm tin chúng ta. Cả dưới khía cạnh giáo dục, Đức Maria được đặt để “trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Giáo Hội” – theo cách nói của công đồng Vat. II.31 Thật cần thiết làm cho hài hòa chiều kích này của Mẹ Chúa Giêsu với những yếu tố khác mà chúng góp phần làm sáng tỏ nhân phẩm là con Thiên Chúa của chúng ta. Như thế, chúng ta từ chối sự nguy hiểm rơi vào chủ nghĩa thái quá không kiểm soát được và sự bất cập giảm thiểu quá ý nghĩa.

Tôi cống hiến một vài chỉ dẫn sau đây, được rút từ những bài viết, những nghiên cứu về các tác phẩm của thánh sử Gioan. Đó là những chi chép đơn giản,32 đòi phải có những sự đào sâu hơn nữa.

2.1. Niềm tin vào Đức Kitô và phúc làm con Thiên Chúa

a.    Niềm tin vào Đức Kitô – Ngôi Lời nhập thể, là điều kiện để trở nên “con Thiên Chúa” và như thế hiện thực hóa nhân phẩm của chúng ta. Thánh Gioan đã xác định  trong Ga 1,12: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Và trong 1Ga 5,1: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra”. Truyền thống nhất lãm đã ghi lại lời tuyên bố sâu sắc của Chúa Giêsu, rất thích ứng với chủ đề của chúng ta: “Mẹ tôi và anh em tôi là những người lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21; cf Mc 3,34-35; Mt 12,49-50).

Lời giáo huấn của Chúa Giêsu rất rõ ràng. Bất cứ ai lắng nghe Lời của Thiên Chúa được Chúa Giêsu công bố là làm trọn thánh ý Chúa Cha và trở nên mẹ của Chúa Giêsu. Trở nên một Maria khác! Con đường mà Mẹ đã đi là: sinh ra Chúa Giêsu, trở nên hình ảnh sống động của Lời Ngài. Quyết tâm luân lý do việc lắng nghe Lời Chúa khơi dậy và mời gọi, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho  việc mạc khải icone dung mạo Chúa Kitô trong chúng ta (cf Ef 4,13.15.20-24).

b.  Như vậy: Mẹ của Chúa Giêsu chủ động trong việc làm sống lại sự vâng phục Lời của Người Con: “Người nói gì, các anh hãy làm theo” (Ga 2,5). Mẹ đã nói như thế với những người giúp việc trong tiệc cưới tại Cana vào “ngày thứ ba”. Cũng lời mời gọi lành mạnh đó, mẹ tiếp tục lập lại cho chúng ta, “những người đầy tớ” của Giao Ước mới, mà chúng ta sống “ngày thứ ba” do Chúa Kitô Phục sinh đã mở đầu. Bởi điều này, Giáo Hội được khai sinh (cf Ga 2,19-22; 14.20). Trong mỗi giây phút trong giờ ấy, Đức Maria khuyến khích chúng ta là những người con của Ngài, lãnh nhận lấy những lời giáo huấn của Chúa Giêsu (Ga 14,21). Bấy giờ, Đức Maria từ vai trò là ‘Mẹ” của Chúa Giêsu trở nên “người môn đệ” của Chúa Giêsu và, trong thời gian đó, trở nên “nhà giáo dục”của tất cả môn đệ. Ở đây chúng ta nhận biết một trong những khía cạnh rõ ràng hơn của sứ mệnh là mẹ-nhà giáo dục của tất cả các kitô hữu.

Trong khi sống sự trao phó này từ Đức Maria, mỗi kitô hữu hiện thực hóa hình ảnh Đức Giêsu đã được ghi dấu nơi mỗi người chúng ta từ buổi đầu tạo dựng. Thật vậy, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể vĩnh cửu ở kề bên Thiên Chúa từ buổi ban đầu, nhờ Ngài và trong Ngài mà muôn vật được tạo thành (Ga 1,1-3).

Những lời Đức Trinh Nữ nói ở Cana – quan sát Marialis Cultus của ĐTC Phaolo VI, số 57 – “đó cũng là một tiếng nói hòa điệu cách tuyệt vời với lời của Chúa Cha trong cuộc biến hình trên núi Tabore: ‘Các ngươi hãy nghe lời Người’ (Mt 17,5)”.33 Như vậy lời của Mẹ dưới thế và lời của Cha trên trời thống nhất với nhau để chuẩn bị cho nhân loại biết “sự vâng phục của đức tin” trong Đức Kitô- Đấng Cứu Thế. Làm như thế, tới lượt mình, Đức Maria đưa dẫn chúng ta trong lãnh vực của sự thân mật với Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con tuân giữ những lời Thầy truyền dạy” (Ga 15,14).

Khía cạnh Kitô học của sứ mệnh giáo dục của Đức Maria mở ra một chiều kích khác:  chiều kích Ba Ngôi. Thật vậy, Lời của Chúa Giêsu – mà Đức Maria dẫn chúng ta vào – là Lời Sự Thật đến từ Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Giáo lý của Ta thì không phải của Ta, mà là của Đấng đã sai Ta” (Ga 7,16) – “Như Cha Ta đã dạy Ta thế nào, Ta sẽ nói như vậy” (Ga 8,28) – “Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha” – “Lời Cha là sự thật” (Ga 17,7.17).

Hơn nữa, Lời của Chúa Giêsu đang hoạt đông trong chúng ta là bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hơi thở thần linh (Pneuma) cho phép chúng ta mở trái tim cho Lời của Sự Thật, được trao ban bởi Chúa Cha ngang qua Chúa Giêsu, và làm chúng ta lớn lên trong Lời (Ga 3,5; 14,6.26; 16,13-15). Sự thờ phượng của Giao ước Mới, hệ tại trong việc thờ phượng Chúa Cha, qua việc đón nhận Sự Thật được Đức Giêsu công bố, và nhờ bởi sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (Ga 4,23-24).

Lời đề nghị của Đức Maria cho những người phục vụ tại tiệc cưới Cana là chúc thư thiêng liêng của Mẹ. Đức Maria không nói thêm một lời nào. Nhưng mẹ đã nói điều chính yếu cho mỗi người phục vụ - môn đệ Chúa Giêsu. “Người bảo gì các anh hãy làm theo” là điều kiện cần thiết cho phép tham dự vào tiệc cưới Con Chiên – Đức Kitô, vị Hôn Phu của Giao ước Mới (Kh 19,7-9), khai mở cho “ngày thứ ba” của Phục Sinh (cf Ga 14,20). Hương thơm của “ngày thứ ba”  lan rộng cho những ngày khác trong hành trình của chúng ta đến gặp gỡ Đấng Phục Sinh.Và giới răn mà Đức Maria lưu giữ là sự tươi mát vĩnh cửu “cho đến ngày Chúa đến” (cf 2Pr 3,10).

Trong buổi cầu nguyện ‘kinh Truyền tin’ ngày 17/7/1983, ĐTC  Gioan Phaolo II đã hiện thực hóa sự hiện diện của Đức Maria ở Cana trong những từ ngữ sau đây: “Anh chị em thân mến, hôm nay, những người phục vụ trong tiệc cưới là chính chúng ta. Đức Trinh Nữ không ngừng lập lại cho chúng ta là những người con của Ngài điều mà Mẹ đã nói ở Cana. Lời mời gọi đó có thể là một di chúc thiêng liêng. Thật vậy, đó là lời nói cuối cùng của Mẹ Maria mà các thánh sử ghi lại. Chúng ta hãy đón nhận và gìn giữ lời ấy trong trái tim chúng ta!”.34

Thật vậy, từ sự hiểu biết cách có trách nhiệm lời di chúc của Đức Maria, phụ thuộc vào đó vận mệnh của những câu hỏi, những vấn nạn về đức Maria trong Giáo Hội của mỗi thời đại. Cả trong thiên niên kỷ thứ ba!

2.2. Chúa Thánh Thần và sự đón nhận Lời

a.    Thánh Thần là sức mạnh thần linh của Đức Kitô Phục Sinh, sức mạnh ấy giúp mỗi người mở trái tim mình ra cho đức tin.

Nó là thời điểm khai mở - bắt đầu cho sự tái tạo này: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).  Ở đây có sự lớn lên và sự kiên trì bền bỉ trong một điều kiện mới của “con cái Thiên Chúa”. Một cách chắc chắn rằng Thánh Thần tiếp tục thực hiện và hoàn thành tính năng động nhằm đến sự trưởng thành của chúng ta trong Lời của Đức Kitô. Ngài “giáo huấn”, có nghĩa là “giáo dục” những tín hữu trong khi giúp họ nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói (Ga 1,26). Điều mà Chúa Giêsu đã nói, Thánh Thần sẽ nhắc lại. Hơi thở thần linh (Pneuma) của Đấng Phục sinh hướng dẫn các môn đệ tới sự hiểu biết về Sự Thật Tin mừng trong sự toàn vẹn của nó, và dần dần những dấu chỉ của thời gian thúc bách Thần Khí mạc khải những tiềm năng của dòng chảy lịch sử .

Nếu Chúa Giêsu là Sự Thật (Ga 14,6), Chúa Thánh Thần cũng là sự thật (1Ga 5,6). Lời tuyên xứng đức tin của Giáo Hội đảm nhận mầu nhiệm Ba Ngôi: thờ phượng Chúa Cha, trong khi đón nhận Sự Thật của Đức Kitô – Chúa Con, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (Ga 4,23-24).

b.    Chức năng làm mẹ của Đức Maria đối với các môn đệ của Đức Kitô hệ tại ở tương quan với Chúa Thánh Thần. Chức năng đó được khai sinh từ Thánh Thần, được tuôn trào từ Đức Giêsu chịu đóng đinh trên cộng đoàn hiện diện dưới chân Thánh giá, là đại diện cho số còn sót lại trung thành của dân Israel (Đức Maria, các phụ nữ khác và người môn đệ).

Lưu ý rằng trong Ga 19,30 có thể được đọc trong ý nghĩa kép. Ý nghĩa thứ nhất có liên quan đến cái chết thể lý của Chúa Giêsu. “Ngài gục đầu xuống và tắt thở”. Nhưng còn có nghĩa bóng thứ hai ám chỉ đến Chúa Thánh Thần, Đấng được trao ban cho nhân loại qua cuộc khổ nạn vinh quang của Chúa Giêsu: “Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 7,39).35

Sức mạnh sáng tạo của Thần khí này (cf Ga 6,63) làm cho Đức Maria trở nên Mẹ của người môn đệ và làm cho môn đệ trở nên con của Mẹ. Xác định với sự sắc bén sâu xa của ĐTC Gioan Phaolo II: “Đức Maria ôm ấp tất cả chúng ta với một sự cần mẫn đặc biệt trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, trong Ngài, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính, Ngài là Đấng “trao ban sự sống”. Chính Ngài ban sự tròn đầy của cuộc sống mở ra cho vĩnh cửu. Tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria là sự tham dự vào sức mạnh của Thánh Thần, Đấng ‘trao ban sự sống’”.36

Cuối cùng thì, chỉ một Thần Khí duy nhất làm cho Đức Maria trở nên Mẹ của Chúa Giêsu và Mẹ của Giáo Hội. Trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa nơi cung lòng mình (Lc 1,35 và Ga 1,13) và trong sức mạnh của cùng một Thần Khí, Mẹ được trao phó làm Mẹ của tất cả môn đệ Chúa Giêsu (Ga 19,25-27.30).

2.3. Loan báo Lời và tình mẫu tử của Hội Thánh

a.    Giáo Hội là ‘Mẹ’. Thật vậy Giáo Hội loan báo cho tất cả Lời của Thiên Chúa, Lời ấy biến đổi con người nên ‘con cái Thiên Chúa’. Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. […] điều chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi”. (1Ga 1,1-2).

Thánh Phaolo làm sáng tỏ trong thư gửi tín hữu Colose: “Chính Đức Kitô là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,28-29).

Trong khi rao giảng Tin mừng, Giáo Hội thực hành chức năng làm mẹ trong lãnh vực đức tin. Vì thế thánh Phaolô hướng về các tín hữu giáo đoàn Galata mà chính ngài đã Tin Mừng hóa họ, với những lời này: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Ki-tô được thành hình nơi anh em” (Gal 4,19).

Thánh tông đồ Gioan đã gửi một bức thư cho một cộng đoàn tín hữu, được gọi bằng một tên mang tính biểu tượng “Bà được Thiên Chúa tuyển chọn”, và ngài viết như sau: “Tôi là kỳ mục, kính gửi Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và con cái Bà là những người mà tôi thực sự quý mến” (2Ga 1) và “Các con của người chị em Bà, người chị em đã được Thiên Chúa tuyển chọn” (2Ga 1.13). Và vì cùng một lý do, thánh Gioan đã muốn gọi các môn đệ mình là những người mà ông rao giảng tin mừng là ‘những người con’, ‘những người con bé nhỏ’ (cf 1Ga 2,1; 2,12.28; 3Ga 4).

Thánh giáo phụ Cipriano (U 258) xác định rằng: “Không thể có Thiên Chúa là Cha, nếu không có Giáo Hội là Mẹ”.37

b.    Như đã nói ở trên, Giáo Hội là Mẹ. Từ điểm này, rất tốt nếu đưa ra ánh sáng rằng tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria không thể thay thế tình mẫu tử của Hội Thánh và cũng không thể ngang hàng với nhau. Cách giải thích đơn giản trong Giáo Hội và với Giáo Hội. Chúng ta có thể tái mời gọi nguyên tắc cơ bản này được công bố trong Giáo luật: “Trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh, chúng ta hãy nhớ lại trước tiên là vinh quang và sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria, Mẹ của Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô”. Nên lập lại rằng tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria hòa điệu với tình phụ tử hoặc tình mẫu tử thiêng liêng của mỗi kitô hữu, khi họ gieo hạt giống Lời Chúa trong trái tim của những người con thiêng liêng của mình.

Có sự khác nhau nào giữa tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ Maria và tình phụ tử-mẫu tử thiêng liêng của chúng ta? Sự khác nhau giữa Đức Maria và chúng ta hệ tại ở loại đặc sủng được khơi lên bởi cùng một Thánh Thần trong mỗi người chúng ta, theo ơn gọi riêng biệt của từng người: đời sống hôn nhân gia đình, linh mục, tu sĩ, trong việc điều hành guồng máy của một tập thể Giáo hội hay xã hội.

Điểm Giáo hội học này về dung mạo Đức Maria “nhà giáo dục” hài hòa cách một cách tuyệt vời với đề tài của Giao ước, mà trong đó hiện thực hóa toàn bộ lịch sử cứu độ. Ngay từ khởi nguyên, Thiên Chúa đã mạc khải như một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, như Đấng “Emmanuel”. Nhờ bởi ân phúc sự lựa chọn của Ngài, Ngài đã không bao giờ đơn độc. Ngài luôn cuốn hút tất cả dân tộc của Ngài trong công cuộc của Giao ước, đưa nó đến thành toàn nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, Thiên Chúa ghi dấu ấn một Giao ước mới và vĩnh cửu.

Đức Kitô Phục Sinh, Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài vẫn hoạt động trong sự hiệp thông chặt chẽ với Hội Thánh. Ngang qua Chúa Thánh Thần – là quà tặng và lời hứa của Chúa Cha, Ngài khơi dậy nhiều sự cộng tác giữa anh chị em. Tất cả và từng người, Ngài đều mời gọi để cộng tác vào dấu chỉ thần linh luôn tuôn tràn từ Ba Ngôi chí thánh. Tất cả Hội Thánh, bây giờ trở nên “nhà giáo dục” trong Đức Kitô và với Đức Kitô.

Chúng ta ghi nhớ lời giáo huấn của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Epheso (4,4-6): “Chỉ có một Thần Khí,[…] chỉ có một Chúa,[…] chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”. Hành động của Chúa Cha được bày tỏ ngang qua tất cả có thể được thể hiện trong những ân huệ-đặc sủng khác nhau của Chúa Thánh Thần – là Đấng mà Đức Kitô phục sinh vinh quang ban xuống đầy tràn cho nhân loại: “Nhưng mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, […] Người đã ban ân huệ cho loài người” (Ef 4,7-8).

Thánh sử Gioan xác định rằng: “Từ sự sung mãn của Người [Đức Kitô], chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Nếu Đức Kitô là ánh áng cho trần gian (Ga 8,12; 9.5), cùng với Ngài chúng ta là ánh sáng cho trần gian (Mt 5,14). Ngài là Con Thiên Chúa (Gv 3,16) và chúng ta là những người con của Thiên Chúa (Ga 1,12). Ngài là viên đá sống động (1Pr 2,4), chúng ta cũng là những viên đá sống động (1Pr 2,5). Ngài là Vua, tư tế và ngôn sứ; chúng ta cũng là vua, tư tế và ngôn sứ.38 Ngài là “Đấng  trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tm 2,5); chúng ta ‘những trung gian’.39 Ngài là nhà giáo dục, chúng ta cũng là những nhà giáo dục: trong Ngài và với Ngài. Như một hệ quả có logich của cấu trúc này trong “Giao ước”, tất cả Hội Thánh, với Đức Kitô, được gọi để “giáo dục”, để “làm lớn lên” trong chúng ta dung mạo của Ngài. Ơn gọi của Hội Thánh là “Mẹ”.

2.4. Tìnhphụ tử - mẫu tử thiêng liêng và việc làm gương sáng

a.    Giáo huấn Kinh thánh-Do thái giáo xác định rằng một người cha hoặc người mẹ thiêng liêng phải trở nên ‘gương mẫu’ cuộc sống cho các con của họ. Thánh Gioan nhận ra trong căn nguyên của giáo lý này khi ngài kể rằng, với những người Do Thái đã tuyên bố: “Chúng tôi có Abraham là cha”, Đức Giêsu đã đối chất lại: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm” (Ga 8,39).

Ngoài truyền thống của Gioan, chúng ta còn có truyền thống của Phaolô. Thánh tông đồ đã tự nhận mình là “cha” của các giáo đoàn ở Thesalonica và Corinto mà ngài đã sáng lập nên khi rao giảng Tin mừng ở đó (1Tx 2,11; 1Cr 4,15). Hướng về các kitô hữu mới này, ngài đối xử với họ với sự dịu dàng đầy tình thương mến của một người mẹ nuôi dưỡng con cái và chăm sóc chúng (1Tx 2,7): một sự so sánh, điều này được hiểu như những phạm trù của tình phụ tử thiêng liêng có thể chuyển đổi được sang tình mẫu tử thiêng liêng. Và như một hệ quả, thánh Phaolo xác nhận: “anh em bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cr 4,16). Nhưng trong tư tưởng của thánh Phaolo “bắt chước” Đức Kitô có nghĩa là Đức Kitô “sống động” trong ngài: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Cả thánh tông đồ Phêrô cũng chỉ dạy như thế cho những người vợ kitô giáo: “Như bà Xa-ra, bà đã vâng phục ông Áp-ra-ham, và gọi ông là "ông chủ". Chị em là con cái của bà, nếu chị em làm điều thiện và không sợ hãi trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào” (1Pr 3,6).

Tiếp đến là văn học Do Thái đương thời gần với thời của Tân Ước, chúng ta ta gặp được dung mạo những người nữ tuyệt vời được tôn kính như những “người mẹ” của dân tộc được tuyển chọn và là “nguyên mẫu” của sự trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa.40

Chỉ một ví dụ là đủ,  đó là đời sống của bà Debora, được gọi là “mẹ của dân Israel” trong sách Thủ lãnh (Tl 5,7). Theo những tích truyện cổ Do Thái của Filone (tác giả ẩn danh vào tk I s.cn), bà Debora, trước cái chết, bà cất lời kêu xin với những bộ tộc và nói với họ: “Xin hãy lắng nghe tôi, hỡi dân tộc của tôi. Này đây, ta chỉ dạy các con như người nữ của Thiên Chúa và ta soi sáng cho các con như người đại diện của nữ giới. Các con hãy nghe lời ta như một người mẹ của các con, và đón nhận lời ta và nghĩ rằng như chính các con phải chết […] Hãy hướng lòng các con lên Thiên Chúa của các con cho đến khi các con được sống [..] Các con của ta, hãy lắng tai nghe lời ta nói […] và hãy hướng lòng trí các con về ánh sáng của Lề Luật” (33,1.2.3).  Trong trách nhiệm là ‘mẹ’ thiêng liêng của những bộ tộc, bà Debora thúc giục những người con của bà điều khiển những bước chân của họ trong đường lối Chúa cách kiên định.41

b.    Tính phụ tử - mẫu tử thiêng liêng như chúng ta đã nói, đòi hỏi việc ‘làm gương sáng’. Bây giờ tôi muốn áp dụng trên Đức Maria, một kết luận chắc chắn chúng ta phải làm. Nếu Chúa Giêsu đã muốn chỉ dẫn nơi Đức Maria là “Người nữ - Mẹ” của tất cả môn đệ, điều đó có nghĩa là Ngài muốn đặt để Đức Maria cho Giáo hội như là mẫu gương - cách thức - khuôn mẫu cho một đời sống theo Tin mừng.42 Chính Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta ‘nhìn lên’ Đức Maria – mẹ của Ngài. (Ga 19,26). Như Mẹ đã đón nhận người môn đệ được yêu mến, mỗi người chúng ta đón Mẹ về nhà mình và muốn thu được những đặc điểm để hoàn thành ơn gọi của người môn đệ Chúa Kitô. Tài liệu “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, làm nổi bật từ Tổng Tu nghị 208 của Dòng Tôi tớ Đức Mẹ  (1983), có sự diễn tả này: “Lòng hiếu thảo hướng về Mẹ Maria hệ tại trước hết ở việc đảm nhận phong cách sống Tin mừng của Mẹ”.43

Một cách hiệu quả là những nhân đức của Đức Maria (đức tin- sự vâng phục, cầu nguyện, khó nghèo, khôn ngoan, đau khổ,…), hay là những “đặc ân riêng” của Mẹ (Vô nhiễm Nguyên tội, Mẹ Thiên Chúa, Đồng trinh trọn đời và Hồn xác lên trời) biển đổi thành những đề nghị tương tự của cuộc sống cho Hội Thánh toàn cầu: trong giai đoạn lữ hành hay trong giai đoạn khải hoàn-vinh quang trên thiên quốc.

Những nhà giáo dục cần lưu ý và giữ trong tâm trí mình! Không phải nói đến một bản “copy – sao y bản chính” nhưng là “sống lại” (rivivere) những cách cư xử và phong cách sống  của Đức Trinh nữ, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thần Thần không bao giờ copy sao y bản chính, nhưng không ngừng sáng tạo cái mới. Ngài là một họa sĩ vẽ icone thần linh, Ngài vẽ trong chúng ta icone của Đức Maria, trong sự hòa điệu với nhân cách của chúng ta, giống Đức Maria, nhưng không bao giờ giống nhau tất cả!

2.5. Tình phụ tử - mẫu tử thiêng liêng và lời chuyển cầu

a.    Những người cha và mẹ của Dân Thiên Chúa, trong Giao ước cũ hay giao ước mới, họ đều có thể “chuyển cầu” cho những người con, nhờ bởi công trạng họ có được do bởi sự thánh thiện của họ.

Niềm tin này có trực giác ban đầu trong Kinh Thánh, và rất sống động trong Do Thái giáo lúc đầu và trong Kitô giáo sau này.44 Nó nhắm đến bổn phận quan trọng đối với chiều kích cộng đoàn và chiều kích hội thánh của ơn cứu độ. Thật vậy, hiệu quả của nó là những người Cha, người Mẹ, dù đã qua đời họ vẫn tiếp tục sống trong đại gia đình của con cái Thiên Chúa. Sự giàu có nhân đức của họ là một năng lực và là phúc lành lớn lao được đổ xuống trên tất cả. Như những tế bào mang chở sự sống, họ thực hành một sự ảnh hưởng lành mạnh trên tất cả cơ cấu.

Trong Cựu Ước, sau cuộc sống hiện tại, những người Cha và người Mẹ của dân tộc được tuyển chọn được vào sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống (cf Mt 12,26-27; Mt 22, 31-32; Lc 20,36-38). Với sự chờ đợi của Giao ước Mới, sự sống của họ sau cái chết tạo nên chỉ một thực tại với Đức Kitô Phục Sinh và với Thiên Chúa Cha (Ga 11,25-26; Cv 7,4-17; 21,2-5).  Vì vậy, những người Cha và người Mẹ họ cầu nguyện và hoạt động cách tích cực, cho đến khi có thể thông truyền cho chúng ta là con cái sự tròn đầy tinh khôi của Thánh Thần bắt nguồn từ Thiên Chúa, và bao bọc mỗi thành viên của thân thể Chúa Kitô là Hội Thánh của Người.

Sau đây là vài điểm đối chiếu từ truyền thống Kinh Thánh. Tiên tri Gieremia, ngài rất yêu thương anh em của mình, ngài cầu nguyện cho dân tộc và cho thành phố của ngài (2Mac 15,14). Thánh Phao lô chắc chắn rằng, dân tộc Israel là dân tộc được Thiên Chúa yêu thương nhờ công đức của cha ông họ (Rm 11,28-29). Thánh Phaolo tự nhận mình là cha của giáo đoàn Thesalonica (1Tx 2,11), ngài cầu nguyện cách liên lỉ cho họ như những người con của ngài (1Tx 1,2-3; 2,13; 1Tx 1,3.11). Trong sách Khải huyền của Thánh Gioan ngài viết, trong vinh quang thiên quốc, những người được tuyển chọn sẽ cùng hiển trị với Chúa Kitô (Kh 2,26-28; 3,21);  những lời cầu nguyện của các thánh hiện diện trước ngai Thiên Chúa cùng với hai mươi bốn vị Kỳ mục (Kh 5,8) và con Chiên (Kh 8,3-4); tiếng reo hò của các vị tử đạo dâng lên trước nhan Chúa (Kh 6,9-10). Và tất cả Giáo Hội, Hiền Thê của Con Chiên khát khao mong mỏi gặp gỡ vị Hôn Phu của mình. Được sinh động bởi Chúa Thánh Thần, sự sống thần linh, Tân Nương nói: “Xin Ngài hãy đến” (Kh 22,17).

b.    Chúng ta vừa nói rằng một người cha hoặc người mẹ thiêng liêng “chuyển cầu” cho những người con của mình.Trong ánh sáng của lời hứa này,  ta suy ra rằng, Đức Maria trong đặc quyền của mình như là Mẹ của Hội Thánh, ngài chia sẻ sứ mệnh “chuyển cầu” này. Mẹ không là một sự hiên diện xa vời, không thay đổi mà đòi chúng ta phải noi gương bắt chước cách chính xác như một họa sĩ trước những mẫu vẽ của ông. Việc chuyển cầu giúp chúng ta hiểu trong cách thức rộng mở hơn và mang tính cá nhân hơn trong tương quan mẫu tử-đào luyện của Đức Maria đối với từng người chúng ta.

Ở Cana, “ngày thứ ba”, Mẹ của Chúa Giêsu bày tỏ sự cần mẫn tuyệt vời đối với khách dự tiệc của tiệc cưới, là hình ảnh cho tiệc cưới của Con Chiên – vị Hôn Phu với Hội Thánh – vị Hiền Thê của Ngài (cf Ga 3,20 và Kh 19,7.9; 21,2). Và hôm nay, trong “ngày thứ ba” của Giáo Hội sống và bước đi dưới ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh, Đức Trinh Nữ lưu tâm và tỉnh thức trên mỗi người con mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Mẹ dưới chân thánh giá. Kết luật của thông điệp Redemptoris Mater: “Với đặc tính ‘chuyển cầu’ này, mà Mẹ đã thể hiện lần đầu tiên trong tiệc cưới ở Cana miền Galilê, vai trò trung gian của Mẹ tiếp tục trong lịch sử của Giáo Hội và của thế giới”.45

Sr. Maria Marchi đã bình luận rằng: “Đức Maria giáo dục mang tính cá nhân hóa, bởi vì lời chuyển cầu phong phú hơn là vì mẹ biết phải xin Thiên Chúa, xin Chúa Thánh Thần, xin Đức Kitô điều gì để có thể hiện thực hóa căn tính kitô hữu nơi những người con của Mẹ. Và Mẹ cũng là con người giàu có những lời chuyển cầu vì mẹ là người thành công hơn”.46

3. Đức Maria, “được giáo dục” bởi Đức Kitô

Trước khi Đức Maria được tuyên xưng là Mẹ của các môn đệ của Chúa Giêsu, Chính Đức Giêsu đã dạy dỗ Mẹ con đường trở nên môn đệ. Mẹ đã chấp nhận được giáo dục bởi Người Con  trong đức tin. Khía cạnh này làm nổi bật bởi tường thuật của Thánh Gioan tại tiệc cưới Cana. Nơi đó Mẹ đã cất lời cầu nguyện cùng Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3).

Thánh Gioan nêu lên ba lời nguyện. Đó là ba cơ hội mà nơi đó Chúa Giêsu đón nhận lời nguyện cầu của những ai kêu xin Ngài can thiệp, nhưng Ngài thực hiện nó cách bất ngờ, đột xuất, không chờ đợi, thường vượt quá nỗi mong chờ và lời cầu xin của những người kêu xin Ngài trợ giúp.

Những người mà tôi muốn đề cập đến đó là: Mẹ Chúa Giêsu trong tiệc cưới Cana và hai chị em của Lazaro (Marta và Maria). Theo trình tự của những tường thuật Tin mừng này, lưu ý rằng trong mỗi tường thuật về những lời cầu nguyện có ít nhất 3 yếu tố chung, gần như là 3 thời khắc của câu chuyện được kể lại. Thứ nhất: người xin Chúa Giêsu một ơn. Thứ hai: Chúa Giêsu từ chối và dường như cẩn trọng, giữ kẽ, đề ra những điều kiện. Thứ ba: Chúa Giêsu thực hiện phép lạ, tuy nhiên theo cách thức vượt xa rất nhiều những lời cầu xin.

Chúng ta cùng xem cách ngắn gọn từng hoàn cảnh, để lập lại sứ điệp trong niềm tin chứa đựng bên trong công trạng cho lời cầu nguyện, bao gồm cả lời cầu nguyện của Đức Maria.

3.1. Đức Maria ở Cana

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ của Chúa Giêsu nhận ra tiếng nói cười rộn ràng vui vẻ trên bàn tiệc có vẻ yếu dần đi. Vì thiếu rượu rồi! Mẹ quay sang Chúa Giêsu và nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Nhưng  Chúa Giêsu có vẻ tỏ ra hững hờ với điều Mẹ đang quan tâm. Thật vậy, Ngài trả lời: “Chuyện đó có can gì đến mẹ và con? Giờ con chưa đến.” (Ga 2,4). Cách nói “Chuyện đó có can gì đến mẹ và con?” rất thường xuyên được nói trong ngôn ngữ Kinh Thánh. Chúng ta nhớ đến trong Cựu Ước 15 lần47 và 5 lần trong Tân Ước.48 Thường thì nó hướng đến sự khác nhau trong cái nhìn giữa hai hay nhiều người trong cuộc đối thoại.

Ở Cana nổi lên một sự khác biệt về điều quan tâm của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đức Maria bận tâm về rượu vật chất, đang thiếu trên bàn tiệc. Chúa Giêsu, từ phía Ngài, Ngài muốn nâng tầm đối thoại đến một nấc thang giá trị khác, đó là điều liên quan đến Giờ của Ngài. Trong Tin mừng theo thánh Gioan, Giờ của Chúa Giêsu tương ứng với cuộc khổ nạn - cái chết – sự phục sinh. Là giờ đỉnh cao của sứ mệnh Ngài.49

Từ đây có một ẩn ngữ: tương quan nào có thể có giữa rượu và Giờ của Chúa Giêsu? Đức Maria đã không thể hiểu ngay trong lúc ấy. Thật vậy, cách đặt biệt trong Tin Mừng theoThánh Gioan, trong khi đối thoại với những người đến gần Ngài, Ngài dẫn họ đi từ từ, đi từ thực tế vật chất sang thực tại thiêng liêng mà thực tại vật chất là hình ảnh.50 Khi nào Ngài dùng ‘dụ ngôn’ (cf Ga 16,25.29), những người nghe Ngài họ không hiểu. Ngay lúc đó, cần một lời giải thích để làm sáng tỏ ý nghĩa của nó. Có hai cách thức. Thường thì chính Chúa Giêsu giải thích tư tưởng của Ngài ngay sau đó;51 hoặc trong ánh sáng của sự Phục Sinh, những sự tối nghĩa ấy sẽ được soi sáng.52 Thiết nghĩ chỉ cần 2 ví dụ để cho thấy cách nói theo phong cách Rabbi của Chúa Giêsu như một vị thầy Rabbi.

Sau khi Chúa Giêsu kết thúc cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, các môn đệ của Ngài trở về sau khi vào làng mua thức ăn (Ga 4,8). Họ nói với Ngài: “Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Và các môn đệ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Đức Giêsu nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (Ga 4,31-34). Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã làm cho các tông đồ hiểu ngay đâu là lương thực mà Ngài muốn nói đến.

Ngược lại, trong một tường thuật khác Ga 2,19-22: “Đức Giê-su đáp: ‘Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại’. Người Do-thái nói: ‘Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?’. Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.  Lần này, như chúng ta thấy, lời giải thích cho lời nói bí ẩn của Chúa Giêsu có liên quan đến cái chết và sự phục sinh của Ngài (cf Ga 12,14-16).

Cho đến đây, một kết quả rõ ràng và sáng nghĩa hơn. Khi Chúa Giêsu đối thoại cách ám chỉ, nói bóng, đi từ thực tại vật chất sang thiêng liêng, thì những người nghe không thể hiểu được ý ngài. Căn cứ vào điều này để tìm cách giải thích trường hợp của Đức Maria, Mẹ đã không thể hiểu đâu là ý muốn của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana.53 Ở đây có một kiểu nói đùa trong đối thoại giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Đức Maria không hiểu cách chính xác điều Chúa Giêsu muốn nói đến. Mặc dù, Mẹ đã hoàn toàn phó thác cho thánh ý của Người Con, và nói với những người phục vụ thái độ đức tin của Mẹ khi nói: “Ngài bảo gì, các anh cứ làm theo” (Ga 2,5).

Đến những người phục vụ, làm tất cả theo lệnh Chúa Giêsu (c 7-8). Lưu ý rằng, đây là một mệnh lệnh không hợp lý. Thật vậy, trong khi trên bàn tiệc cưới thiếu rượu, Chúa Giêsu lại bảo những người phục vụ lấy nước lã đổ đầy các chum. Phép lạ chỉ xảy ra khi người quản tiệc nếm thử . Lúc bấy giờ nước lã đã hóa thành rượu, chứ không phải từ ban đầu! Đây là phần thưởng cho đức tin của Mẹ Maria và của những người phục vụ.  Lời từ chối ban đầu của Chúa Giêsu đã biến đổi sang sự ngạc nhiên của rượu hảo hạng và dư đầy, vượt xa thứ rượu phục vụ cho tiệc cưới lúc ban đầu.

Tóm lại: bối cảnh lúc đầu Chúa Giêsu dường như  muốn từ chối lời xin của Mẹ. Trong thực tế, Ngài tỏ ra đón nhận lời cầu xin đó trong một cách thức không chờ đợ và mang lại tràn đầy niềm vui bất ngờ. Và khi nào đến “ngày thứ ba” của phục sinh, Đức Maria đủ trình độ để hiểu được cách thâm sâu ý nghĩa ẩn dấu của tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm ngang qua “dấu chỉ” đầu tiên này. Khởi đi từ biến cố phục sinh, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các môn đệ nhớ lại lời của Thầy mình và Ngài giúp cho họ hiểu trọn vẹn hơn những điều họ đã nghe từ Đức Kitô (cf Ga 14,26). Chúa Giêsu nói và Chúa Thánh Thần nhắc nhớ lại. Cũng trong ánh sáng của phục sinh và của Thánh Thần, Đức Maria  có thể hiểu rằng ở Cana Chúa Giêsu muốn trao ban thứ rượu vật chất, nhưng là chỉ là dấu chỉ, là hình ảnh của thứ rượu khác: rượu của Lời Chúa, của Tin Mừng, mà có thể biểu lộ trong sự thành toàn của việc Giờ đã đến. Mầu nhiệm Phục Sinh đã mạc khải cách hoàn hảo căn tính sâu xa của Chúa Giêsu, là Lời_Logos của Sự Thật phát xuất từ Chúa Cha: “Tôi là Sự Thật” (Ga 14,6) – “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20).

3.2. Sĩ quan cận vệ của nhà vua ở Cafarnaum

Ở Cana còn xảy ra một phép lạ cho một sĩ quan cận vệ ở Caphanaum, ông ta phục vụ trong triều vua Herode Antipa (cf Mc 6,14.22). Một người cha đến cầu xin Chúa Giêsu: “xin Người xuống chữa con tôi vì nó sắp chết” (Ga 4,47). Điều làm chúng ta ngạc nhiên là câu trả lời của Chúa Giêsu: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!” (c.48).

Người cha van xin. Tuy nhiên Chúa Giêsu không đi Caphanaum, Ngài không ban cho ông “nhìn thấy” một phép lạ bằng đôi mắt thể xác của mình. Trái lại, Chúa Giêsu đòi hỏi ông tin vào Lời của Ngài phán: “Ông cứ về đi, con ông sống!” (c.50a).  Và viên sĩ quan đã quay về nhà mình, ai biết được những nỗi buồn và lo lắng ông mang trong tâm hồn! (c.50b). Và đây, một sự bất ngờ. Ngay khi ông quay về, những người đầy tớ chạy đến báo tin cho ông biết là con ông sống, vào lúc khoảng một giờ trưa. Lúc ấy đúng vào giờ Chúa Giêsu nói: “Con ông sống!” (c.51-53). Sự đau khổ của niềm tin, biết phó thác chỉ nơi lời của Chúa Giêsu, được giải quyết trong niềm vui mà tràn ngập cả nhà: “nên ông và cả nhà đều tin” (c.53b).

3.3. Marta và Maria, chị em của Lazaro

Ở Betania, Lazaro bị đau nặng (Ga 11,1). Marta và Maria, chị em của ông cho người đến nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (c.3). Chúa Giêsu, mặc dù rất thương mến chị em Marta, Maria và Lazaro, nhưng Ngài không khởi hành ngay. Trái lại, Người ở lại đó đến 2 ngày, và chỉ quyết định lên đường khi Lazaro đã chết (c.11-16). Thật lạ lùng sự chậm trễ của Chúa Giêsu! Một số người bình luận khi nhìn thấy Chúa Giêsu khóc thương Lazaro trước mộ của bạn ngài: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” (c.37). 

Ở đây xem ra cách cư xử của Chúa Giêsu rất kỳ quặc. Tuy nhiên, Ngài mạc khải rằng ý muốn của Ngài vượt lên trên. Ngài nói với các môn đệ: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (c.14.15). Để kết luận: Chúa giêsu đã không mau mắn đi cứu chữa người bạn đang đau nặng, nhưng đi để phục sinh người bạn đã chết được 4 ngày và đã chôn trong mồ (c.38-44).54

3.4. Một bài học “giáo dục” cho Đức Maria và cho chúng ta

Từ 3 tường thuật tiêu biểu cho 3 lời cầu nguyện vừa phân tích trên đây, một sự thu thập tin tức làm nổi bật lên sự rõ ràng. Nghĩa là:  Chúa Giêsu đòi lại vương quyền trong việc hoàn thành những kỳ công của Người; Ngài tự quyết định chọn về thời gian và cách thức, bởi vì nhắm đến sự lớn lên trong niềm tin của người cầu xin Ngài. Ngài biết rõ: “Có gì trong lòng người” (Ga 2,25), Ngài không phó mặc cho ai chỉ muốn chiếm lấy chỉ những gì vật chất trong những dấu chỉ do Ngài thực hiện. Chúng ta tìm thấy điều này xảy đến sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều trong tường thuật Ga 6,1-15. Đám đông muốn bắt Ngài và tôn lên làm vua, nhưng Ngài đã lánh mặt và đi lên núi một mình (c.14-15). Ngày hôm sau, Ngài nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (c.26-27). Bài học đã rất rõ ràng. Chúa Giêsu đã ban cho đám đông bánh mì vật chất. Tuy nhiên, đó là thứ bánh mì là dấu chỉ cho một loại lương thực khác mà chính Ngài sẽ ban: món quà lời của Ngài (c.26-51a), quà của Mình và Máu của chính Ngài (c.51b-58). Đó là bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.

Trong chiến lược của Chúa Giêsu, ta thấy có một lời mời gọi được hiểu ngầm dành cho các môn đệ, bởi vì muốn các ông để qua một bên ngay lập tức chủ nghĩa thực dụng  và mở lòng ra cho một kế hoạch mà nó vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của các ông. Một cách rõ ràng hơn, Chúa Giêsu “thử thách” những ai xin Ngài phép lạ (cf Ga 6,6). Ngài muốn giáo dục, và thanh tẩy niềm tin của những ai lắng nghe Ngài. Ngài không để mình bị điều kiện hóa hay bị ràng buộc bởi bất cứ một sự tính toán nhân loại nào. Cả trong việc hoàn thành những dấu lạ, Ngài chỉ vâng lời một mình Chúa Cha (Ga 4,34; 8,29). Như đã thực hiện trong dấu chỉ ở Cana (Ga 2,11a), mục đích ưu tiên của cách cư xử của ngài là “bày tỏ vinh quang của Chúa Cha”,  từ đó sản sinh đức tin của các môn đệ (Ga 2,11b-c). Bình luận về ý tưởng này, nhà chú giải kinh thánh Alberto Descamps đã nói: “Bậc Thầy không cư xử như một người bình thường, cũng không như một nhà ảo thuật, nơi người ấy như đã quen với  một kế hoạch cao thượng hơn, gần như không thể thông tri được […]. Cấp độ của Chúa Giêsu là ‘bày tỏ vinh quang”, trong khi đó các môn đệ vẫn còn gắn bó với những gì thuộc về đất. Đối với người thuộc về đất, cách cư xử  của Chúa Giêsu vẫn còn khó hiểu, bởi vì cấp độ của ơn cứu độ không hoàn thành theo những lề luật, những cách thức và những chiến thuật của thế giới này”.55

Một sự kiện đáng ngạc nhiên. Cũng như thế đối với Đức Maria, mẹ của Ngài, Đức Giêsu sử dụng phương pháp để đào sâu đức tin này. Ngược lại, theo Tin mừng thánh Gioan, Đức Maria là người đầu tiên mà Chúa Giêsu thông truyền phương pháp sư phạm của Ngài trong việc cầu nguyện. Và Đức Maria đã đặt mình trong sự hoàn toàn vâng phục ý muốn của Người Con, và  chuyển trao cho những người phục vụ bàn tiệc ở Cana sự tín thác trọn vẹn của Mẹ nơi Đức Giêsu khi nói: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Từ mẹ, ngài trở nên môn đệ. Chúa Giêsu “giáo dục” đức tin của Mẹ, và Mẹ đã để mình được giáo dục bởi Người Con.

Đến đây chúng ta có thể trích dẫn số 20 trong thông điệp Redemptoris Mater của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II như sau: “Nơi Đức Maria, trong cách nhìn và trong tinh thần, đã dần dần sáng tỏ hơn sứ mệnh của Người Con. Như một người Mẹ, Đức Maria luôn mở ra hơn nữa cho “sự mới mẻ” của tình mẫu tử mà chính mẹ phải xây dựng bên cạnh Người Con […]. Như thế, Đức Maria đã trở nên Người môn đệ đầu tiên của Người Con, là môn đệ mà Chúa Giêsu nói với Mẹ: “Hãy theo Ta”, lời mời gọi này Chúa Giêsu đã nói với Mẹ trước tiên (cf Ga 1,43).56

4. Đức Maria “được giáo dục” trong niềm tin của Israel –     dân tộc của Mẹ

Mỗi lần chúng ta vâng phục lời Chúa Kitô trong Kinh Thánh, chúng ta đón Mẹ Maria về trong ngôi nhà đức tin của chúng ta, Mẹ gửi lại Chúa Giêsu cho chúng và nói: “Người bảo gì, các con cứ việc làm theo” (Ga 2,5).

Những lời này mạc khải cho thấy Mẹ của Chúa Giêsu “được giáo dục” trong đức tin của dân tộc Israel của mình. “Lời – ĐTC Phaolo VI giải thích trong Marialis cultus – trong biểu hiện bên ngoài rất hạn chế với ước mong để giải quyết cho một tình huống khó xử trong bữa tiệc, nhưng, trong bối cảnh của tin Mừng Gioan, Lời như một tiếng nói vang dội lại một công thức được dân Israel sử dụng để phê chuẩn những quyết định (cf Gs 24,24; Xh 10,12)”.57

Hệ quả là, “ngày thứ ba” của sự thần hiển vĩ đại trên núi Sinai (Xh 19,11.16), dân Israel chấp nhận Giao ước với Thiên Chúa và lớn tiếng với sự hiện diện của Môsê: “Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo” (Xh 19,8; cf 24,3.7). Lời tuyên xưng đức tin còn vang dội lại và lập lại trên môi miệng của dân tộc được tuyển chọn mỗi lần giao ước Sinai được canh tân hay được nhắc lại (cf Gs 2,21; Xh 10,12; 1Mac 13,9…).

Ở tiệc cưới Cana, Đức Maria tỏ bày gia tài của niềm tin này và Mẹ thưa với Chúa Giêsu - Môisê mới.58 Nơi Mẹ hội tụ tất cả những lời cầu khẩn của đám đông dân Israel, mà các tiên tri kính chào như “Người Nữ-dânThiên Chúa”. Vì vậy, hơn là “mẹ của Chúa Giêsu” (Ga 2,1.3.5.12), Đức Maria được Đức Giêsu gọi với tước hiệu “Người Nữ” (Ga 2,4). Dưới ánh nhìn của Chúa Giêsu, ngôn sứ của Chúa Cha, Đức Maria là sự giản lược của “Israel-Người Nữ” của Giao ước. Trong lòng dân tộc mình, Mẹ đã học được phong cách sống vâng phục và “sư phạm- giáo dục”, vì vậy Mẹ được Thiên Chúa của cha ông mình chấp nhận lời ca Magnifica mà Mẹ đã hát lên (Lc 1,46-55).

5. Đức Maria, “nhà giáo dục” của Chúa Giêsu?

Với tất cả chúng ta, những hạn từ mà thánh Gioan đền cập đến sự hiện diện của Đức Maria trên Golgotha: “Đứng gần thập giá (parà tô staurô) Chúa Giêsu có thân mẫu Người” (Ga 19,25a). Cần lưu ý, trong bản văn hy lạp của Tân Ước, giới từ pará (= gần, kề bên) thường theo sau bởi một từ đối cách nếu đó là đồ vật, của một vật nào đó; regge il  dativo (tặng cách) sử dụng khi có để bổ sung/complemento một cá nhân. Chỉ trong trường hợp của Ga 19,25a có một sự vi phạm nhỏ/deroga. Vì ở đây, thập giá không phải là cá nhân một người, nhưng là một đối tương vô tri vô giác; tuy nhiên thánh sử Gioan đã muốn dùng giới từ pará  với đối cách (“parà tòn staurón”). Trái lại Gioan dùng tặng cách/dativo (“parà tô staurô”). Sự ngoại lệ này, là duy nhất trong tất cả bản hy lạp của Tân Ước, 59 có thể là một sự chủ ý. Thánh sử Gioan, có thể muốn đặt để cách minh nhiên việc Đức Maria, các phụ nữ khác và môn đệ họ trong sự hiệp thông không phải với thập giá, nhưng là Đấng chịu đóng đinh trên thập giá: thập giá đó, thật ra là “thập giá của Chúa Giêsu” (Ga 19,25).

Khi những ngày của cuộc vượt qua đến, Đức Maria không đòi phải luôn luôn ở bên cạnh Người Con, để có thể chia sẻ với Ngài “con đường khổ giá”. Nếu ban đầu, Mẹ đã trải nghiệm về lòng nhân từ vô biên của Chúa (Lc 1,47b-48a), thì bây giờ chúng ta chiếm ngắm mẹ như “mẹ của lòng xót thương” cứu chữa và  thương xót cuộc tử đạo của Người Con, đã trở thành “Con người đau khổ”.

Ở đây chúng ta có thể tạo không gian cho một khía cạnh cao hơn về dung mạo của Đức Maria trong vai trò “nhà giáo dục”. Thật vậy, không ít tiếng nói trong truyền thống kitô giáo xác nhận rằng Đức Maria “sinh ra” Người Con trên đồi Canvê. Nếu Mẹ sinh ra Chúa Giêsu, đây là giả thuyết, hoàn thành đối với Chúa Giêsu một hành động “là mẹ - nhà giáo dục”.  Mệnh đề này có nền tảng hay không?60

Để chứng minh điều gợi ý trên đây, chúng ta thử tìm giá trị của một tác phẩm kinh điển về lòng thương xót kitô giáo. Điều muốn nói tới ở đây là ý nghĩa chung của những tín hữu, khi liên kết mẹ của những người con ông Macabei, đã đồng hành trong việc chịu sát tế của 7 người con, với mẹ của Chúa Giêsu đã ở cạnh Người Con trong bi kịch ở Canvê.

a.    Người mẹ trong sách Macabê – bản văn kinh thánh viết: “bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: ‘Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn […] sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình” (2Mac 7,20-23). Đồng ý với cách thức này – sách ngụy thư Macabe quyển thứ tư vào thế kỷ I d.C – người mẹ anh hùng này đã ‘sinh hạ’ lần thứ hai những người con của bà. Thật vậy, bà đã sinh họ vào cuộc sống vĩnh cửu (4Mac 16,13).

b.    Những suy luận tương tự, chúng ta có thể rút ra được từ sự hiện diện của Đức Maria dưới chân thánh giá (Ga 19,25). Trong giờ ấy, Mẹ đón nhận một thử thách niềm tin tận gốc rễ. Thật vậy, Mẹ Maria đã ôm lấy thánh giá; trao ban một sứ điệp sâu xa từ trong nội tâm rằng Mẹ bao bọc, lưu giữ trong một trật tự của ơn cứu rỗi được hoàn thành bởi Đấng mà bị treo trên đó.61 Khi nhìn thấy Người Con đau khổ và chết, thật hợp lý khi kết luận rằng Đức Maria - “Con gái Sion”, đã nghĩ đến những giờ phút tăm tối trong lịch sử dân tộc mình và của cha ông họ. Lịch sử đó với Mẹ rất quen thuộc bởi một nền giáo dục gia đình và nhờ việc suy niệm Thánh kinh. Mẹ biết rõ rằng chính Thiên Chúa đã rất nhiều lần giải thoát xiềng xích cho những người công chính. Ngài triệt hạ những kẻ uy quyền và nâng cao những người nghèo hèn (cf Lc 1,52). Niềm tin của Mẹ Maria có thể sánh với bà Giuditha, khi bà giáo huấn cho những người anh em biết hy vọng, nhắc họ nhớ lại những việc Chúa đã làm cho tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop (Gdt 8,17.26-27).  Nếu Thiên Chúa đã làm như thế trong quá khứ, thì bây giờ Ngài có thể hoàn thành lời hứa mà Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết. Giống như Abraham, Mẹ cũng ở lại cách vững vàng trong niềm xác tín rằng “Thiên Chúa có khả năng làm cho kẻ chết sống lại” (Dt 11,19; cf Rm 4,17). Như người mẹ của các con ông Macabe, Mẹ Maria cũng tham dự vào hy tế của Người Con, được nâng đỡ “bởi niềm hy vọng đặt nơi Thiên Chúa” (2Mac 7,20).

Kết hiệp trong hy tế của Người Con với những cảm xúc đức tin đó, Mẹ Maria “sinh hạ” Chúa Giêsu trên đồi Canvê; đạt đến sự thành toàn hơn nữa sứ mệnh của ngài là Mẹ - nhà giáo dục đối với Chúa Giêsu. Lời kết luận này không viễn vông. Thật vậy, cần lưu ý rằng sứ mệnh của một người mẹ đối với những đứa con của mình thì không giới hạn. Nó trải dài suốt cả cuộc sống và tiếp tục sau cuộc sống này.  Chìm sâu trong Đức Kitô Phục Sinh, những người mẹ của chúng ta làm hoàn thiện hơn mức độ dâng hiến của họ. Nhìn thấy Mẹ ở bên cạnh mình (cf Ga 19, 26-27), nhân tính của Chúa Giêsu, xót xa đau đớn bởi sự tổn thương thể lý - tâmlý rất bi kịch này, chắc chắn Đức Kitô cảm nghiệm được sự an ủi không thể thay thế được của sự hiện diện của Mẹ Maria. Lời nguyện xin sự an ủi của Cha trên trời (Ga 12,27; 16,32; cf Lc 22,39-44), cũng đến nhờ trái tim từ mẫu của Mẹ dưới đất. Trong giờ đó, Chúa Giêsu cũng được ví như một cuộc hạ sinh (cf Ga 16,21-22), Mẹ Maria tập luyện một sự ảnh hưởng  trên Người Con mà Mẹ đã sinh ra.  Thật vậy, Chúa Cha đã “phục sinh – tái sinh” Người Con như sự đáp trả cho sự vâng phục con thảo mà Chúa Giêsu đã thể hiện, cho đến hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho mọi người (Cf Pl 2,5-11). Không chút nghi ngờ rằng Đức Maria đã giúp Chúa Giêsu chấp nhận và sống cái chết của Ngài trong sự hòa điệu với thánh ý của Chúa Cha. Bởi thế, trong cực đỉnh đau thương của xác thân con mình đã thay đổi hình dạng, với đức tin, mẹ cộng tác vào việc sinh hạ Người Con vào cuộc sống vinh quang của sự phục sinh bất tử.

Trong một lời: nếu Chúa Giêsu nhìn thấy sự vượt qua từ thế giới này đến với Chúa Cha “trong cách thức này” (cf Mc 15,39) – cầu nguyện và tha thứ - điều này cũng thế đối với Đức Maria. Cho đến lúc Mẹ biết “giáo dục” Người Con.

6. Kết luận

Từ truyền thống của Gioan, chúng ta có thể góp nhặt một vài điểm quý báu có liên quan đến đề tài được trình bày trong Hội thảo. Tính theo nhịp độ thời gian của tiến trình lịch sử-cứu độ của cá nhân mẹ Maria, chúng ta có thể rút ra những  điểm sau đây.

1.    Mẹ Maria, trước hết, đã được giáo dục  trong đức tin và bởi đức tin của Israel – dân tộc của mẹ. Từ anh chị em ruột thịt, Mẹ đã bắt đầu tinh thần thiêng liêng của Giao ước, tóm gọn trong lời hứa của Israel ở Sinai “Những gì Thiên Chúa phán, chúng tôi sẽ thực hiện” (Xh 19,8; 24,3.7).  Âm vang của sự vâng phục đức tin này  được chứa đựng trong lời mời gọi mà Mẹ của Chúa Giêsu đã nói với những người phục vụ trong tiệc cưới ở Cana: “Người bảo gì, các anh hãy làm theo” (Ga 2,5).

2.    Đức Maria đã được Chúa Giêsu giáo dục. Ngài đã giúp Mẹ hướng ánh nhìn đức tin lên cao hơn, vượt qua những cảnh đau khổ của cuộc sống hàng ngày để nhận ra trong đó những mục đích cao hơn của kế hoạch thần linh. Trong ý nghĩa đó, giáo huấn là sự mâu thuẩn trong chốc lát trong cách nhìn vấn đề của Mẹ Maria và Chúa Giêsu ở Cana (Ga 2,3-4). Sự tỏ ra hững hờ bên ngoài của Chúa Giêsu đối với việc rượu thiếu trong tiệc cưới đã được vượt qua, trong thực tế, từ món quà bất ngờ và dư tràn của rượu ngon tuyệt diệu, là hình ảnh của một Ơn ban khác: Lời Chúa, Tin Mừng của Chúa Giêsu. Nó sẽ kím múc được sự diễn tả tròn đầy của nó khi nào đạt đến Giờ mà Chúa Giêsu lìa bỏ thế gian này mà về cùng Cha.

3.    Ngược lại, Chúa Giêsu được Đức Maria giáo dục. Chiều kích giáo dục này của mẹ Chúa Giêsu có thể chiêm ngắm được trong sự hiện diện của Mẹ dưới chân thánh giá (Ga 19,25.26). Maria, thật vậy, là một người mẹ biết “giáo dục”, nghĩa là giúp Người Con uống cạn chén đắng mà Chúa Cha đã trao phó (cf Ga 18,11). Mẹ đã an ủi Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn như một người mẹ trần gian, Chúa Giêsu có thể biến đổi sự khiếp sợ của cái chết bi thương, bằng việc sống biến cố này với trọn niềm tín thác cho thánh ý Chúa Cha. Để đáp lại sự vâng phục của Chúa Con, Chúa Cha đã làm cho người được tái sinh trong vinh quang của sự sống lại.

4.    Trong việc hoàn tất Giờ của Ngài, Chúa Giêsu – trong ân sủng của Thánh Thần – đã làm cho mẹ của Ngài trở nên mẹ của tất cả môn đệ (Ga 19,26-27a.30). Đức Maria , được ThánhThần thúc đẩy, ngài chăm sóc tất cả anh chị em của Đức Kitô - Con của mẹ. Mẹ “giáo dục” họ, để họ được tái sinh trong phẩm giá của con Thiên Chúa (cf Ga 1,12). Như thế nào? Với sự chuyển cầu và việc làm gương sáng, cả hai đều được Chúa Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy.

Lời chuyển cầu, như trong “ngày thứ ba” ở Can, Mẹ Maria làm trung gian giữa Chúa Giêsu và những người phục vụ (Ga 2,3.5), hôm nay cũng vậy, trong “ngày thứ ba” cánh chung được khai mở từ sự phục sinh của Chúa Kitô, Đức Trinh Nữ tiếp tục thực hiện vai trò của mình là khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, Mẹ cũng trình diện với Đức Kitô Phục sinh muôn vàn sự cần thiết của Giáo Hội Ngài, trung tâm của thế giới. Mặt khác Mẹ dạy dỗ chúng ta , những người phục vụ tiệc cưới của Giao Ước mới để làm tất cả những gì Chúa nói.

Làm gương sáng. Như một “người mẹ” vũ hoàn, mẹ rực sáng trước mắt tất cả con cái của mẹ một tấm gương để trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô. Trong những nét vẽ của con người được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần, có một vẻ đẹp cuốn hút và đáng yêu. Chúa Thánh Thần ghi dấu trong những người con những đường nét của Mẹ. Phương pháp sư phạm thần linh này biến đổi mỗi người trong một hình ảnh luôn trở nên giống Chúa Giêsu Kitô hơn.

5.    Sứ mệnh giáo dục của Đức Maria ở mức độ suất sắc, kitô học, giáo hội học và ba ngôi học. Kitô học vì Mẹ nhận được từ nơi người Con trách nhiệm làm Mẹ mà nó cho phép mẹ giáo dục tất cả trong sự vâng phục Lời của Chúa Giêsu: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo” (Ga 2,5). Giáo Hội học: Mẹ đã luyện tập trách nhiệm làm mẹ trong sự hiệp thông  và  liên kết với tất cả các cộng đoàn kitô hữu. Ba Ngôi học: vì Lời của Con – lời mà Mẹ Maria trao gửi cho chúng ta – là Lời của Cha, Lời ấy hoạt động trong chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần.



1 Marchi M., Vai trò của Đức Maria trong hành vi giáo dục của Hội dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ,  trong Manello M.P. (ed.), Mẹ và nhà giáo dục. Những đóng góp cho căn tính maria của Tu hội Con Đức Mẹ Phù Hộ, Roma, LAS 1988, 178.

2 Một vài gợi ý hướng dẫn nổi bật, ví dụ trong một cuốn sách tôi đã viết: Maria a Cana e presso la Croce. Saggio di marialogia giovannea (Ga 2,1-12, Ga 19,25-27), Roma, Centro di Cultura Mariana “Madre della Chiesa” 1991,79-122; Dimensioni mariane del mistero pasquale. Con Maria dalla Pasqua all’Assunta, Milano, Paoline 1995, 13-37.

3 Ireneo di Lione, Adversus Haeres 3,1.1

4 Cf Serra, Maria a Cana, 79-122.

5 Is 49,18; 60,4; Ez 1,4ss; 37,8ss; Dn 2,31ss; Bar 4,36-37; 5,5; Gv 19,26b.

6 De Goedt M., Un schema de revelation dans le Quatrième Évangile, in New Testament Studies 8(1961-1962) 142-150.

7 La Divina Commedia, Paradiso 33,1.

8 Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II , Bài nói chuyện trong buổi yết kiến vào thứ Tư, ngày 23 tháng 11 năm 1988.

9 De la Potterie., La parole de Jésus “Voici ta Mère” et l’accueli du Disceple (Jn 19,27b), in Marianum 36(1974) 1-39.

10 Neirynck F., Eis tà ìdia. Jn 19,27 (et 16,32), in Ephemerides Theologicae Lovanienses 55(1979)357 -365.

11 De la Potterie., Eta à partir de cette beure, le Disciple l’accueillit dans sonintimité” (Jn 19,27b), in Marianum 42(1980)84-125.

12 Neirynck F., La traduction d’un verset johannique. Jn 19,27b, in Ephemerides Theologicae Lovanienses 57(1981) 83-106.

13 De la Potterie., La parole de Jésus 19-39

14 De la Potterie., La parole de Jésus 30.

15 Vanni U., Dalla maternità di Maria all maternità della Chiesa: un’ipotesi di evoluzione da Ga 2,3-4 và 19,26-27, in Id., l’Apocalisse. Ermeneutica, esegesi, teologia, Bologna, Dehoniane 1988,341

16 De la Potterie., La parole de Jésus 36 -39; Id., “Et à partir de cette beure…” 120.

17 De la Potterie., La parole de Jésus 124.

18 Cf Neirynck, Eis tà ìdia 357-365.

19 Những bài giáo huấn của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, X/1, Città del Vaticano, LEV 1988,795.

20 L.c

21 Ivi, n. 45

22 Ivi, V/2 1982, 1578, nn. 1 e 2.

23 Ivi, XI/4 1991, 1638, n.8 (buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư ngày 23 tháng 11 năm 1988)

24 Ivi, XI/3 1991,775 (bài giảng trong thánh lễ phong chân phước cho Joseph Gérard, tu sĩ dòng Đức Mẹ Vô nhiễm, vào ngày 11 tháng 09 năm 1988).

25 Ivi, VII/1 1984,1036, n.2 (bài giảng trong buổi đọc kinh Truyền tin, Chúa nhật lễ Lá ngày 15/04/1984)

26 Ivi,  V/1 1982, 1371, n.5 (bài giảng trong thánh lễ cho phong trào Focolari, trong hội trường Phaolo VI)

27 Ivi, V/2 1982, 1578, n.2 (bài giảng trong thánh lễ tại Fatima, ngày 13/5/1982).

28 Ivi, XI/1 1989, 738 n.4, 740 n.6.

29 In Enchiridion Vaticanum, 1. Il Concilio Vaticano II, Bologna, Dehoniane 197911, 503.

30 Vun trồng giao ước. Chương trình đào luyện của Tu Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ, Leumann (Torino), Elle Di Ci 2000, 29,30.

31 Lumen Gentium, ch. VIII.

32 Đó là những tư tưởng tôi đúc kết, tóm tắt từ bài viết của tôi trong cuốn sách nhỏ của tôi Đức Maria trong Tin mừng, Queriniana 1987, 166-171.

33 Trong Enchiridion Vaticanum, 5, Bologna, Dehoniane 1979, 124-125.

34 Trong Insegnamenti di Gioanvanni Paolo II, VI/2,1983,84-85.

35 Cf Zevini G., Vangelo secondo Giovanni, II, Roma, Città Nuova 1987, 263-265.

36 Trong Insegnamenti di Giovanni Paolo II, V/2 1982,1578, n.1 (bài giảng ở Fatima ngày 13/10/1982).

37 De Catholicae Ecclesiae unitate, 7 (orpus Christianorum Series Latina, III/1,254-255).

38 Cf Công Đồng Vaticano II, Lumen Gentium, 10-12.

39 Cf Công Đồng Vaticano II, Lumen Gentium, n.60.

40 Cf Serra A., Le Madri d’Israele nell’antica letteratura giudaica e la Madre di Giesù. Prospettive di ricerca, in ID., E c’era la Madre di Giesù (Gv 2,1). Saggi di esegesi biblico-mariana (1978-1988), Milano-Roma, Edizione Cens-Marianum 1989, 423-468.

41 Id., Miryam, Figlia di Sion. La Donna di Nazareth e il femminile a partire dal giudaismo antico, Milano, Paoline 1997,98-99.

42 Tương qua giữa “tình mẫu tử thiêng liêng’ của Đức Maria và ‘mẫu gương’ của ngài cho Hội Thánh, được trích trong Paolo VI., Esortazione Apostolica “Signum Magnum (13 maggio 1967). Cf Enchiridium Vaticanum, 2 (1963-1967), Bologna, Dehoniane 197911, 980-1003.

43 2080 Capitolo Generale dell’Ordine dei servi di Maria (1983), Fate quello che vi dirà. Riflessioni e proposte per la promozione della pieta mariana, Leumann (Torino), Elle Di Ci 1985, 99, ..115.

44 Cf Serra, Le Madri d’Israele 460-467.

45 In Enchiridion Vaticanum, 10, Bologna, Dehoniane 1989, 1010-1011, n. 40.

46 Marchi, Il ruolo di Maria 179.

47 Gs 22,24;…

48 Mc 1,24;5,7…

49  “La mia ora”…

50 Dal vangelo di Giovanni 2,19-22 (đền thờ Giêrusalem và đền thờ là chính thân thể Chúa Giêsu),…

51 Ga 3,3-6; 4,31-34; 6, 26-58; 11,11-14.

52 Ga 2,22; 4,13-15; Lc 2,50.

53 Lc 2,48-50: Thánh Giuse và Mẹ Maria chưa thể hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu. Mầu nhiệm phục sinh sẽ mạc khải ý nghĩa sâu xa của tình con thảo thần linh của Ngài đối với Chúa Cha.

54 Một lý thuyết do thái giáo nói rằng linh hồn của một người chết bay trên xác người chết trong vòng 3 ngày, với hy vọng có thể trở về được . Nhưng ngày thứ tư – khi xác chết bắt đầu phân hủy – linh hồn người chết không muốn trở về và rời xa.

55 Descamps A., Une letture bistorico-critique [de Jean 11], in Aa. Vv., …..

56 In Enchiridion Vaticanum, 10, Bologna, Dehoniane 1989, 954-955.

57 Esortazione apostolica Marialis cultus, n. 57, in Enchiridion Vaticanum, 5, Bologna, Dehoniane 1979, 124-125.

58 Cf Aristide Serra., Contribuiti dell’antica letterature giudaica per l’esegesi di Giovanni 2,1-12 e 19,25-27, Roma, Edizioni Herder 1977, 139226.

59 Cf  Zorell F., Lexicon Graecum Novi Testamenti, Parisiis, P. Lethielleux 19613, col.979-980.

60 Cf Ruperto di Deutz, Commentaria in Evangelium Sancti Iohannis, XIII, a Gv 19,26-27.

61  Lumen Gentium, 58.