Việc học hành
Về chuyện các môn học cha bị lôi cuốn bởi một sự sai lầm đáng lý đã để lại nơi cha những hậu quả tệ hại, nếu như một sự việc do Chúa quan phòng đã không đến cất điều đó đi. Cha đã có thói quen đọc các tác phẩm cổ điển trong tất cả khóa học cấp ba 205, quá quen thuộc với những dung mạo vượt trổi của thần thoại và của các câu chuyện truyền kỳ ngoại đạo, nên cha không còn tìm thấy thích thú trong các chuyện tu đức nữa 206. Cha đã đi tới tin chắc rằng một ngôn ngữ hay và sự hùng biện không thể dung hòa với tôn giáo. Chính các tác phẩm của các Giáo phụ đối với cha xem ra chỉ là một sản phẩm của những thiên tài có giới hạn, ngoại trừ các nguyên tắc tôn giáo mà chúng trình bày với sức mạnh và sự minh bạch.
Một hôm vào đầu năm triết học thứ hai, cha đi viếng Thánh Thể, và vì không đem theo với mình cuốn sách kinh nguyện, cha liền đọc cuốn Gương Chúa Giêsu 207. Suy nghĩ một cách chăm chú sự cao cả của các tư tưởng và cách thức sáng sủa và đồng thời có thứ tự và đầy chất hùng biện qua đó những chân lý lớn được trình bày, cha bắt đầu tự nhủ: “Tác giả cuốn sách này là một người uyên thâm”. Thế rồi tiếp tục những lần khác đọc tác phẩm vàng này, cha đã sớm nhận ra là chỉ một câu của nó thôi còn chứa đựng biết bao nhiêu là giáo lý và luân lý mà cả nhiều cuốn sách cổ điển đã không chứa đựng được. Chính cuốn sách này đã giúp cho cha thôi đọc các sách thế tục. Cha dấn thân đọc bộ sách của Lịch sử Cựu ước và Tân ước của Calmet 208, và các sách Thời cổ Do Thái; Về cuộc chiến Do Thái của Flavius Josephus 209; rồi sách Thảo luận về tôn giáo của Đức Cha Marchetti;210 rồi các sách của Frayssinous, Balmes, Zucconi, và nhiều văn sĩ tôn giáo khác; cha cũng thưởng thức tác phẩm của Fleury, sách Lịch sử Hội Thánh của ông, mà cha không biết đó là sách phải tránh211. Cha cũng thu lượm được nhiều ích lợi khi đọc các sách của Cavalca, Passavanti, Segneri và toàn bộ Lịch sử Hội Thánh của Henrion 212.
Có lẽ các con sẽ nói: - Lo đọc biết bao nhiêu sách như thế, cha không thể học hỏi các khảo luận của lớp học mình. – Chuyện không phải thế. Trí nhớ của cha luôn tiếp tục ủng hộ cha, và chỉ cần đọc và nghe lời diễn giảng các khảo luận tại lớp đã đủ cho cha đáp ứng đầy đủ các bổn phận của cha. Do đó tất cả các thời giờ thiết định cho việc học hỏi cha có thể dùng để đọc các sách khác nhau. Các bề trên đều biết hết và đã để cho cha được tự do làm điều này.
Một môn học mà cha rất tâm đắc là môn tiếng Hy Lạp. Cha đã học những yếu tố chính trong lớp học môn cổ điển, cha đã học văn phạm và thực hiện các bài dịch đầu tiên nhờ vào các cuốn tự điển. Một cơ hội tốt đã đến với cha một cách rất thuận lợi để thực hiện công việc này. Năm 1836, tại Tôrinô có mối đe dọa của bệnh dịch, nên các cha dòng Tên đã sớm gửi các học sinh nội trú của trường Đức Mẹ Núi Các-men 213 từ trường Carmine về nhà nghỉ tại Montaldo. Việc gửi học sinh về nhà nghỉ sớm này đòi hỏi nhân viên dạy học phải được tăng gấp đôi, bởi vì vẫn phải giải quyết các lớp học cho các học sinh ngoại trú vẫn còn tiếp tục tới trường [tại Tôrinô]. Người ta đã thỉnh cầu cha Cafasso, và ngài đề nghị cha dạy môn Hy Lạp cho một lớp. Điều ấy thúc đẩy cha nghiêm chỉnh học tiếng Hy Lạp nhiều hơn để có thể đứng lớp. Hơn thế nữa, cha còn tìm được một linh mục của dòng Tên tên là Bini, một học giả Hy Lạp uyên thâm. Cha đã thụ hưởng được từ nơi ngài rất nhiều lợi ích. Chỉ trong bốn tháng, ngài đã giúp cho cha dịch hầu như toàn bộ Tân ước, hai cuốn sách đầu của Homero, nhiều thi ca của Pindaro và của Anacreonte214 Vị linh mục xứng đáng này ngưỡng mộ thiện chí của cha, đã tiếp tục phụ đạo cha trong bốn năm; mỗi tuần ngài đọc một bài viết Hy Lạp hay một bài chuyển ngữ từ tiếng Hy Lạp mà cha gửi tới cho ngài, và mau mắn sửa chữa và rồi gửi lại cho cha với những nhận xét thích hợp. Nhờ thế cha có thể dịch tiếng Hy Lạp dễ dàng như dịch tiếng Latinh.
Cũng trong thời gian này cha đã học tiếng Pháp và các nguyên tắc của tiếng Do Thái. Cha rất quí chuộng ba thứ tiếng Do Thái, Hy Lạp và Pháp này, chỉ sau tiếng Latinh và tiếng Ý mà thôi.
Chú thích
205 Nguyên văn “il corso secondario” tương đương với cấp III hiện tại ở Việt Nam.
206 Hồi đó, ngay cả trong giáo giới, các môn học cổ điển vẫn thường được coi là cái cốt lõi của toàn bộ nền giáo dục.
207 Gioan Bosco bắt đầu học năm thứ hai triết học vào tháng 11 năm 1836. Sách Gương Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là sách Don Bosco ưa thích. Khi không thể đọc sách thiêng trong ngày, trước khi đi ngủ, cha đã quì gối trên nền nhà, đọc và suy gẫm một vài câu trong sách (BM IV,318). Hoặc có khi cha rút cuốn sách và tình cờ mở ra, mời gọi người khác đọc những dòng chữ đầu tiên trong trang đó (BM III,432).
208 Calmet, một tu sĩ Bênêđitô, nhà chú giải công giáo tốt nhất của thế kỷ 18.
209 Ông này là một người thân Rôma, và muốn biện hộ cho tính chất trung thành với Do Thái giáo của ông. Ông là một nhà sử Do Thái duy nhất của thời kỳ cuối của cuộc hình thành sách Kinh Thánh, dù không phải là một tác giả luôn đáng tin tưởng.
210 Cuốn “Thảo luận về tôn giáo” đúng ra là của Cha Anphonsô Nicolai (Venezia e Genova,1770). Còn sách của Đức Cha Marchetti mà Don Bosco nhắc tới có lẽ là Bộ Những sự bàn thảo có tính cách gia đình về lịch sử tôn giáo (Tôrinô, Bianco, 1823).
211 Có thể Don Bosco thích phẩm chất văn chương và tính cách nêu gương lành của tác giả này, nhưng ông chủ trương chủ thuyết “Giáo hội kiểu Pháp” (Gallicalism), chống lại “Mục Sách Cấm” (Index) của Tòa Thánh. Don Bosco ngầm cho rằng các bề trên chưa thận trọng đủ trong việc để các chủng sinh tiếp xức với những sách có quan điểm lệch lạc ở vào lúc họ chưa có ý thức cao độ.
212 Auguste Henrion (1805-1862), sử gia về Hội Thánh có khuynh hướng thiên về “Giáo hội kiểu Pháp” (Gallicalism).
213 Trường này là một trường nội trú cho các học sinh quí tộc tại Tôrinô, lấy tên của nó từ Tu viện Các- men và nhà thờ Đức Mẹ Núi Các-men ở đường Carmine. Tuy rất có thế giá, nhưng đã bị dẹp và tịch thu năm 1848 vì cơn sốt chống Dòng Tên. Trường có một nhà nghỉ miền quê tuyệt vời tại Montaldo, một làng cách Chieri khoảng 6 km. Thầy giáo sĩ Bosco dạy Hy lạp và giám thị nhà ngủ từ 1/7 tới 17/10. Vị Giám đốc của trường đã nhận định về Gioan Bosco trong một tờ xác nhận được lưu giữ tại chủng viện Chieri với các phẩm chất honestate morum, pietate in Deum et Sacramentorum frequentia [luân lý lành mạnh, thảo hiếu cùng Thiên Chúa, năng chịu các bí tích].
214 Pindar (522?-443 tCN) và Anacreonte (572?-488 tCN) là những thi sĩ trữ tình.