Những chuyển biến trong giáo dục
1848 – TĂNG SỐ CÁC EM THỢ VÀ LỐI SỐNG CỦA CÁC EM NÀY - BÀI HUẤN TỪ TỐI - NHỮNG NĂNG QUYỀN ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC BAN - CÁC TUẦN LINH THAO NĂM
Trong năm này, cuộc sống xã hội có những biến chuyển mới.
Vua Carlô Albertô đã chấp nhận Hiến pháp 420. Nhiều người chăm chú theo dõi sự kiện này, nhất là việc giải phóng các người Do Thái và các người Tin Lành mà cho rằng không còn phân biệt gì cả giữa những người Công giáo và những đạo giáo khác.
Ngày 20.12.1847 vua Carlô Albertô nhận được một đơn thỉnh cầu của 600 người Công giáo nổi tiếng, sau đó nhà vua đã ký vào đạo luật giải phóng nổi tiếng mà chúng ta nói tới ở đây.
Trong tháng 12- 1847 một Thỉnh nguyện Thư được trình lên vua Carlô Albertô có chữ ký của 600 công dân nổi tiếng, phần đa số là các giáo sĩ, xin lệnh giải phóng danh tiếng đó.
Trong khi đó một thứ cuồng nhiệt đã xâm nhập vào tâm trí của chính các bạn trẻ; họ tụ tập lại tại các tụ điểm khác nhau của thành phố, trên các con đường và các quảng trường, và coi mọi lời sỉ nhục và tấn công chống lại linh mục hay chống lại tôn giáo là một điều tốt lành 421 Cha đã hơn một lần bị tấn công tại nhà và trên đường phố. Một hôm trong khi cha dạy giáo lý, một phát đạn từ nòng súng hỏa mai đi qua lối cửa sổ, xuyên thủng áo cha giữa cánh tay và cạnh sườn, và làm hư một chỗ lớn nơi tường. Lần khác một tên, trong khi cha đang ở giữa đám đông các trẻ em, thì hắn cầm một con dao găm dài đã tấn công cha ngay giữa ban ngày. Và thật là một phép lạ nên cha đã có thể vội vã chạy trốn và ẩn mình tại phòng của cha. Cha giáo sư Borel cũng nhờ một chuyện lạ lùng mà trốn thoát khỏi một cú súng lục và những cú đâm dao vào một lúc mà ngài bị nhận lầm là một kẻ khác. Và bởi đấy rất khó khắc phục một giới trẻ thả buông như vậy. Trong sự điên đảo của các ý tưởng và tư tưởng, thì vừa khi chúng tôi có thể có thêm được những phòng mới, là tăng lên ngay con số của các học trò thợ, đã lên tới mười lăm người, và tất cả đều nằm trong diện các em bị bỏ rơi và đang gặp nguy hiểm lớn nhất. Đó là vào năm 1847.
Tuy nhiên có một khó khăn lớn. Trong khi chưa có được các xưởng trong viện, các học trò của chúng tôi phải đi làm việc và học tại Tôrinô, với cái nguy hại lớn về luân lý, bởi vì các bè bạn mà chúng gặp gỡ, những lời lẽ mà chúng nghe, và điều mà chúng thấy, làm cho ra vô bổ tất cả những gì chúng tôi đã dạy và đã nói cho chúng tại Nguyện xá.
Kể từ đó cha bắt đầu nói một bài giảng rất ngắn vào ban chiều 422 sau kinh nguyện với mục đích diễn giảng hay củng cố một vài chân lý mà chẳng may do mạo hiểm chúng đã bị nói chống lại vào thời gian ban ngày. Điều đã xảy ra cho các học trò thợ, cũng đáng than phiền cho cả các em học sinh. Bởi vì chúng được chia thành các lớp khác nhau, những em học cao hơn (các em theo học các lớp văn phạm) phải đi đến học với Giáo sư Bonzanino,423 còn các em học các lớp văn chương thì tới với giáo sư linh mục Matthêu Picco424 Đó là những trường lớp tốt nhất, nhưng đường để đi, về thì thực là đầy các sự nguy hiểm. Năm 1856 có lợi thế lớn là các lớp học và các xưởng học nghề đã được thiết lập vĩnh viễn tại Nguyện xá. 425
Trong thời điểm đó xuất hiện một sự đảo điên các ý tưởng và hành động, khiến bản thân cha cũng không thể tin tưởng ở những người giúp việc; 426 cho nên mọi công việc nội trợ do chính cha và mẹ cha làm. Làm bếp, chuẩn bị bàn ăn, quét dọn, chẻ củi, cắt may quần, áo sơ mi, áo gi-lê, khăn ăn, khăn tắm, tấm trải bàn, tấm drap cũng như việc may vá lại đồ đạc; đó là những chuyện thuộc phận sự của cha 427. Nhưng những chuyện này lại trở thành rất có lợi về mặt luân lý, bởi vì cha có thể rất thuận lợi ngỏ với các thanh thiếu niên một lời khuyên hay một lời thân ái trong khi phục vụ cho chúng bánh ăn, cháo húp, hay những việc tương tự.
Sau đó vì nhận thức được nhu cầu phải có một vài người nào đó đến giúp đỡ cho cha trong những chuyện trong nhà và học đường tại Nguyện xá, nên cha bắt đầu đem một vài em về miền quê, và đem những em khác đi nghỉ với cha tại Castelnuovo,428 quê hương của cha, người thì dùng bữa trưa với cha, người thì tối đến học đọc hay viết một cái gì đó, nhưng luôn luôn với mục tiêu là cống hiến một phương thuốc giải độc chống lại các quan niệm chứa nọc độc mà các em đã bị nhiễm trong ngày. Đó là việc xảy ra ít nhiều thường xuyên kể từ 1841 đến 1848. Cha cũng dùng đến tất cả các phương thức để theo đuổi một mục tiêu đặc biệt của cha, đó là tìm hiểu, biết được và chọn lựa một vài người có các tư thế và khuynh hướng về đời sống chung, và đón nhận các em ở với cha tại nhà.
Cũng theo đuổi cùng một mục đích như vậy, trong năm 1848 cha đã thử nghiệm một thứ linh thao 429 Cha tiếp đón khoảng 50 em trong nhà Nguyện xá; chúng đều dùng bữa với cha; nhưng không có giường cho mọi người, nên một số phải trở về nhà ngủ để đến sáng hôm sau thì trở lại. Việc đi đến và trở về nhà vào cả ban sáng lẫn ban chiều có nguy cơ làm mất hết những lợi ích các em thu lượm được từ các bài giảng và các bài huấn đức thường có được trong dịp đó. Tuần linh thao bắt đầu từ chiều Chúa nhật và kết thúc vào chiều thứ bảy. Linh thao như vậy thành công khá tốt. Nhiều em mà cha đã làm việc trong một thời gian dài để giúp đỡ nhưng vô ích, đã dấn thân một cách thực sự vào một đời sống nhân đức. Một vài em đã trở thành tu sĩ, những em khác thì ở lại ngoài đời, nhưng đã trở thành các tấm gương trong việc tham dự thường xuyên sinh hoạt Nguyện xá 430.
Về chuyện này sẽ được nói đến riêng ra trong lịch sử Tu hội Salêdiêng. Trong năm đó một số các cha xứ, cách riêng là của các xứ Borgodora, Carmine, thánh Augustino, đã chuyển lên Đức Tổng Giám mục những lời than phiền mới là tại sao lại cho cử hành các bí tích tại các Nguyện Xá. Trong dịp này, Đức Tổng Giám Mục đã ban một sắc lệnh qua đó ngài ban cho đầy đủ các năng quyền để chuẩn bị và giới thiệu các trẻ em nhận lãnh Bí tích thêm sức, nhận lãnh Mình Thánh Chúa và hoàn thành luật buộc xưng tội mùa chay để mừng Phục Sinh cho tất cả những ai lui tới các Nguyện xá của chúng tôi. Ngài cũng tái ban cho năng quyền được cử hành bất cứ nghi thức tôn giáo nào đã từng được cử hành tại các giáo xứ. Đức Tổng Giám mục nói: Các nhà thờ [Nguyện xá] này đối với các trẻ em xa lạ và bị bỏ rơi sẽ chính là các nhà thờ giáo xứ trong thời gian các em còn ở lại tại Tôrinô!
Chú thích
420 Bộ luật Hiến pháp của nhà vua Albertô khẳng quyết: “Khoản 1. Tôn giáo Công giáo, tông truyền và Rôma là quốc giáo duy nhất. Các tín ngưỡng hiện hành khác được khoan dung phù hợp với luật pháp [… ]. Khoản 24. Tất cả dân chúng trong vương quốc, với bất cứ danh nghĩa và cấp bậc nào, đều bình đẳng trước luật pháp. Tất cả đều được hưởng đồng đều các quyền dân sự và chính trị và được tiếp nhận vào các trách nhiệm dân sự và quân đội, ngoại trừ các luật trừ mà luật xác định”.
Sắc lệnh của nhà vua ký ngày 19.3.1848 tuyên bố: “Các người Do Thái được hưởng kể từ ngày hôm nay tất cả các quyền dân sự và khả năng theo đuổi các cấp bậc học hành: không có gì thay đổi liên quan tới việc thực thi tín ngưỡng của họ, cũng như tới các trường học do họ điều hành. Chúng tôi hủy bỏ những gì ngược với luật hiện hành”.
421 Quyết định của Đức Thánh Cha Piô IX là không tham dự vào cuộc chiến tranh giải phóng chống quân Áo đã làm dấy lên một chuỗi những phản ứng chống giáo sĩ, khiến cho sự phân hóa giữa chủ nghĩa tự do và thế giới Công giáo thêm sâu rộng.
422 Nay Việt Nam chúng ta quen gọi là “huấn từ tối”. Trong cuốn Sức mạnh của nền giáo dục tốt… do Don Bosco viết, có lời: “Con Phêrô bé nhỏ của mẹ, con hãy kể cho mẹ nghe vào mọi buổi tối điều các bạn con đã nói với con trong ngày. Nhờ đó mẹ sẽ luôn có thể cho con những lời khuyên tốt về cái con phải làm, và về cái con phải tránh” (OE VI 282-287).
423 Carlo Giuse Bonzanino (? – 1888), giáo sư, cộng tác viên Salêdiêng, từ năm 1837 đã mở trường tư cho các em cấp II, rất gần nhà thờ thánh Phanxicô Assisi.
424 Cha Matthêu Picco (1812-1880) điều hành một trường tư cho các học sinh cấp III. Ngài cũng có biệt thự-nhà riêng để phụ đạo thêm cho các em.
425 Tại Valdocco năm 1853 mở xưởng dạy làm giày và cắt may, năm 1854 mở xưởng đóng sách, năm 1856 xưởng mộc, năm 1862 xưởng hàn, nguội và xưởng in. Và khi ấy số nội trú đã lên đến 150, trong đó có cả Đaminh Savio đi học lớp với thầy giáo Pico!
426 Trong Vài dòng lịch sử về Tu hội thánh Phanxicô Salê và các điều có liên hệ cần được làm sáng tỏ (Rome: Poliglotta, 1874), Don Bosco viết:
Trong năm đó (1848), một cao trào sôi động chống lại các dòng tu, chống lại hàng giáo sĩ và toàn thể quyền bính của Hội Thánh nói chung. Một tiếng la hét giận dữ và khinh bỉ đối với tôn giáo khiến cho người trẻ quay mặt khỏi nên luân lý, lòng đạo đức, và do đó khỏi ơn gọi. Các dòng tu bị phân tán, các linh mục bị cười nhạo, một số bị bỏ tù, số khác bị đày ải. Vậy, cứ nhân loại mà nói, làm sao có thể vun trồng các ơn gọi?
Vào thời đó, Thiên Chúa cho cha biết một loại lực lượng mới (a new kind of army) ngài muốn tuyển binh, không phải lấy từ các gia đình giàu sang, vì đa số họ gửi con cái vào các trường công hay các học đường lớn nơi mà mọi loại tư tưởng, mọi khuynh hướng tới chức linh mục sớm bị bóp nghẹt. Những người làm việc với cái thuổng (cái mai làm vườn) và búa sẽ được chọn để chiếm những chỗ vinh quang của những người sẽ tiến đến chức linh mục.”
Đó chính là điều Don Bosco sẽ làm tại Nguyện xá.
Ngài so sánh Tu hội mới của ngài với một quân đoàn. Ngài ngưỡng mộ dòng Tên, và ngài mượn tên gọi của họ: “Đoàn đội ” để đặt tên cho các người sùng mộ thánh Lu-y của ngài, và sau này là các người sùng mộ Đức Mẹ Vô Nhiễm, sùng mộ Thánh Thể. Nên đúng lý ta phải dịch từ “Compania” bằng danh xưng chính xác: Đoàn thánh Lu-y, Đoàn Thánh Thể, Đoàn Đức Mẹ Vô Nhiễm”!
427 Don Bosco thủ lãnh, cha, thầy và là bạn của các bạn trẻ nghèo khổ thiếu giáo dục, lớn có, nhỏ có, thật vất vả và đầy gian lao, nguy hiểm, tính cả đến các đe dọa tới tính mạng, cho tới từng công việc bếp núc, khâu vá, quét dọn. Cha thánh đã hy sinh biết mấy, hơn cả một người bố mẹ thật trong đời sống gia đình!
428 Từ năm 1847 đến 1864 (17 năm trời), Don Bosco liên tục đưa các em đi dạo píc níc về quê hương Becchi, tại nhà và vùng xứ sở quê hương Castelnuovo của ngài. Lúc ban đầu thì ít học sinh, nhưng dần dần đông hơn, lần chót con số lên tới 100 em. Đó là cuộc đi dạo hùng vĩ, mang theo cả dàn kèn đồng, và hoàn toàn đi bộ, hưởng không khí ngoài trời, các bữa ăn nồng ấm với dân địa phương, miền quê, các cha xứ, và tham gia các dịp hát lễ, diễn văn nghệ quần chúng. Tình huynh đệ, cha con nẩy sinh niềm vui quyến luyến bên nhau, và làm phát sinh các ơn gọi. Trong một cuộc đi dạo, Don Bosco tiếp nhận Cagliero, rồi dịp khác tiếp nhận Đaminh Saviô, rồi một dịp khác tới cả Mornese và tiếp nhận đội ngũ đầu tiên Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm là tiền thân của các nữ tu Salêdiêng, Con Đức Mẹ Phù Hộ, FMA. Don Bosco kể chuyện quê hương cho các em, viếng mộ Lu-y Cômôllô, và sau này khi Đaminh Savio qua đời, các bạn luôn nhớ đến viếng mộ bạn Savio và trào nước mắt! Biết bao sự thánh thiện, tình cảm gia đình, tình cha con, sự gắn bó trong tập thể để dấn thân cho Giáo hội, xã hội phát sinh từ các cuộc đi dạo này. Năm 1865, Don Bosco đã 50 tuổi, với gánh nặng của nhiệm vụ và yếu nhọc, ngài không còn đi píc níc xa cùng các ban trẻ được nữa!
429 Don Bosco là người khai sinh tuần linh thao hay tuần phòng cho các thợ trẻ. Cha giảng phòng vào dịp này là cha Federico Albert (1820-1876), tuyên úy tại cung vua, sau đó là cha xứ tại Tôrinô và Lanzo. Ngài sáng lập một dòng nữ các sơ Đức Mẹ Vô Nhiễm của thánh Vinh Sơn, và qua ngài, người Salêdiêng đã mở một trường tại Lanzo. Ngài được phong chân phước năm 1984.
430 [ghi chú của Don Bosco:] Arnaud Giacinto, Sansoldi, cả hai đã qua đời; Giuse Buzzetti, Nicola Galesio; Gioan Constantino, đã qua đời; Giacôbê Cerrutti, đã qua đời; Carlo Gastini, Gioan Gravano; Đaminh Borgialli, đã qua đời: Tất cả những người này đều được ghi danh vào số những người thực hành cuộc linh thao đầu tiên làm vào năm ấy và họ đã tỏ ra luôn luôn là những Kitô hữu tốt.
Ta có thể xác nhận thêm về tên các vị được Don Bosco nhắc tới này:
Giacinto Arnaud (1826-?) vào Nguyện xá Valdocco năm 1847 và ra khỏi Nguyện xá tháng 2 năm 1856. Carlo Gastini (183201902), học nghề cắt tóc, Don Bosco gặp cậu năm 1843 và đã liều để cho cậu bé thử cao râu lần đầu tiên. Sau này ông đã thú nhận với cha Francesia: “Don Bosco đã thoát khỏi lưỡi dao cạo râu của tôi giống như ông thánh Bartôlômêô!” (Ông thánh Bartôlômêô là người được coi là chết trong khi bị xẻo thịt sống). Giống như Buzzetti, cậu được coi là một trong bốn học sinh hứa hẹn nhất. Gastini là người đầu tiên có ý tưởng thành lập Hội cựu học sinh Don Bosco vào năm 1870. Cậu được coi là người hát rong của Don Bosco, vì giọng tuyệt diệu và tài ngâm thơ, một biệt tài diễn tả các tình cảm dịu dàng. Ông thường hát điệp khúc:
Io devo vivere/ per settan’ anni A me lo disse/ Papà Gioavanni Dịch là:
Tôi phải sống / tới 70 năm
Chính cha Gioan / từng đã nói cho tôi!
Ông chết 28.1.1902, một ngày sau khi ông đã đạt đến 70 tuổi!
Gioan Costantino, học sinh nội trú có trả phí của Nguyện Xá trong năm 1849.
Carlo Gastini (1833-1902), mồ côi cha, vào Nguyện Xá năm 1848, là một trong bốn học sinh có triển vọng mà Don Bosco cho đi học với hy vọng cậu sẽ giúp ngài sau này. Năm 1856, cậu tìm được việc làm bên ngoài và lấy vợ. Năm 1861 trở lại làm việc với Don Bosco. Năm 1870 ông là một trong những sáng lập viên Hội cựu học sinh Don Bosco.
Gioan Gravano, chủ tiệm buôn, tham gia Hội Vinh Sơn tại Valdocco vào năm 1858 (Xem ASC E 582 Biên bản cuộc họp của Hội Vinh Sơn)
Đaminh Gorgialli: Có thể đúng ra là Roberto Borgialli, học sinh nguyện xá thời còn học giáo lý tại nhà thờ thánh Phanxicô Assisi, hội viên Hội Đoàn thánh Lu-y, nội trú tại Nguyện xá, có viết cho Don Bosco một lá thứ vào năm 1867. Nếu đúng vậy, thì cậu là con của Đaminh Borgialli, sinh tại Favria, qua đời tại Tôrinô năm 1866 vào tuổi 69. Don Bosco có thể đã lấy tên cha mà viết thay cho tên của con.