Nhà thờ mới

Dù cho nhà thờ mới này thật sự là một cái gì nhỏ bé,354 tuy nhiên vì được thuê bằng một hợp đồng chính thức, nên đã giải thoát cho chúng tôi khỏi nỗi lo lắng cứ phải từng lúc di trú từ một nơi này sang nơi khác với những khuấy động nghiêm trọng. Còn đối với cha, đây xem như thật sự là nơi cha đã mơ thấy được viết hàng chữ: Đấy là nhà của Ta, từ đấy giải tỏa vinh quang của Ta [Haec est domus mea, inde gloria mea], cho dù những dự định của trời có khác! 355

Căn nhà mà chúng tôi đang ở đây đặt ra một khó khăn không nhỏ; nó là một căn nhà vô luân; khó khăn cũng đến từ phía nhà hàng Giardiniera, căn nhà của bà Bellezza hiện tại, nơi đặc biệt vào các ngày lễ qui tụ những hạng ăn chơi của thành phố. Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng có thể thắng vượt tất cả và bắt đầu thực hiện đều đặn các cuộc qui tụ của chúng tôi.

Công việc đã hoàn tất 356, Đức Tổng Giám mục vào ngày [10] tháng tư [1846] 357 ban năng quyền làm phép và thánh hiến ngôi nhà khiêm cung đó cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Việc đó xảy ra vào Chúa Nhật ngày[10] 358 tháng tư năm 1846 359  Cũng chính Đức Tổng Giám Mục nhằm nói lên sự hài lòng của ngài, đã tái xác nhận lại việc ban các năng quyền như ngài đã ban khi chúng tôi còn ở viện Nương náu, tức là hát lễ, làm các tuần tam nhật, cửu nhật, các cuộc linh thao, cho các em được đón nhận thêm sức, rước lễ lần đầu, và cũng có thể hoàn thành “điều răn Hội Thánh” về giữ lễ cùng rước lễ Phục sinh cho tất cả các em tham dự Viện của chúng tôi.

Một nơi ở vững bền, các chữ ký ưng thuận của Đức Tổng Giám mục, các nghi thức long trọng, âm nhạc, tiếng đồn khắp nơi về một vườn thanh thiếu niên vui chơi, đã thu hút các bạn trẻ từ khắp chốn. Một số các giáo sĩ bắt đầu trở lại. Trong số các vị tham gia vào công cuộc, đáng ghi nhận cha Giuse Trivero, tiến sĩ thần học Giacintô Carpano, tiến sĩ thần học Gioan Vola, tiến sĩ thần học Roberto Morialdo, và tiến sĩ thần học kiên cường Borel. 360

Các việc phụng vụ thánh được cử hành như sau: Trong các ngày lễ, vào sáng sớm mở cửa nhà thờ; và các em bắt đầu xưng tội cho mãi tới giờ lễ. Thánh lễ được ấn định vào 8 giờ, nhưng để thỏa mãn cho đám đông các em ao ước được xưng tội, không hiếm khi thánh lễ được dời lại cho tới 9 giờ hoặc trễ hơn nữa. Một vị nào trong số các linh mục hiện diện sẽ hộ trực các em, và các em đọc kinh chia thành hai bên thay phiên nhau. Trong Thánh lễ, em nào có chuẩn bị thì lên rước lễ. Kết thúc Thánh lễ, cha cởi áo lễ, rồi bước lên một cái ghế thấp, bắt đầu việc cắt nghĩa Phúc Âm, có khi được thay thế bằng việc kể chuyện Lịch sử Thánh361  Các tường thuật này được nói cách đơn sơ và bình dân, với màu sắc của các phong tục của các thời, các nơi chốn, các tên địa lý của chúng, khiến cho chính các bạn nhỏ cũng như những bạn trưởng thành cùng các vị giáo sĩ hiện diện đều lấy làm thích thú. Sau bài giảng, thì có các lớp học cho tới giữa trưa.

Vào một giờ trưa, cuộc chơi bắt đầu, với bun, với các cây cà kheo, súng, gươm bằng gỗ và những dụng cụ thể thao sơ khởi. Vào hai giờ rưỡi, bắt đầu học giáo lý. Các em nói chung rất là dốt nát. Nhiều lần cha bắt đầu hát kinh Ave Maria [Kính Mừng], mà khoảng 400 em hiện diện, không em nào có khả năng đáp lại, cũng chẳng có thể tiếp tục, nếu giọng cha ngưng lại.

Kết thúc giờ giáo lý, vì các em chưa có thể hát Vespri [Phụng vụ kinh chiều], nên tất cả lần hạt mân côi. Sau này các em bắt đầu hát Ave Maris Stella [Kính chào Mẹ là sao biển], rồi kinh Magnificat [Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Đức Chúa], rồi kinh Dixit [ Lạy Chúa, Giờ Đây Xin cho Tôi Tớ Chúa Ra đi Bình an…], cùng các thánh vịnh khác; và sau cùng là kinh Tiền xướng ca và trong vòng một năm, tất cả chúng tôi đều có thể Hát phụng Vụ kinh Chiều Kính Đức Mẹ.

Cùng với việc hát kinh chiều, cũng có một bài giảng ngắn sau đó, bài này chủ yếu là một tấm gương, trong đó một tật xấu hay một nhân đức được hiện thân lên. Mọi sự đều được kết thúc bằng việc hát kinh cầu và chầu phép lành Thánh Thể.

Ra khỏi nhà thờ là bắt đầu thời giờ tự do trong đó mỗi người có thể làm gì theo ý mình muốn. Có những em tiếp tục lớp giáo lý, những em khác lớp hát, hay lớp tập đọc, nhưng phần đa số qua thời gian này bằng chạy, nhảy và vui chơi thỏa thích trong các trò chơi và cuộc vui khác nhau. Tất cả các trò mạo hiểm xuyên qua nhảy dài, chạy đua, trò tung hứng, làm xiếc với các cây gậy, đi trên dây mà xưa kia cha đã học được từ các tay xiếc và nhào lộn, bây giờ được đưa ra thi thố dưới sự chỉ dẫn của cha. Bằng cách đó mới có thể kiểm soát và hãm phanh lại cái đám đông mà phần đa có thể nói được rằng: Chúng giống như lừa ngựa, giống vô tri [Sicut equus et mulus, quibus non est intellectus (Tob. C. VI và Tv 31: 9)].

Tuy nhiên cha phải nói rằng bất chấp sự chưa hiểu biết lớn lao của chúng, cha vẫn cảm phục nơi chúng một sự kính trọng lớn lao đối với những chuyện thuộc về nhà thờ, đối với các vị mục tử thi hành các chức vụ thánh, và một sự mong muốn lớn lao được học hỏi những chuyện tôn giáo. Hơn nữa cha dùng cuộc chơi ngoài lệ như thế để làm len lỏi vào trong các học trò của cha những tư tưởng về tôn giáo và về việc năng tham dự các bí tích. Đối với những em này cha dùng một lời nói rỉ tai, căn dặn các em vâng lời nhiều hơn, mau mắn hơn trong các bổn phận của bậc sống của mình; đối với những em khác cha khuyên nhủ hãy đi học giáo lý thường xuyên, hay hãy đến xưng tội hoặc những chuyện tương tự như thế. Cho nên đối với cha các dịp vui chơi là một cách thế thích hợp để cha chăm sóc đến cả một đám đông các bạn trẻ, là những em vào ban chiều ngày thứ bảy cũng như ban sáng Chúa nhật đã có thiện chí đến để lo xưng tội.

Có đôi khi cha đem chúng ra khỏi chính các trò chơi của chúng để dẫn chúng đi xưng tội khi mà cha đã thấy chúng không sẵn sàng với những bổn phận quan trọng này. Cha sẽ kể lại một trong nhiều vụ việc. Một cậu trẻ tuổi được mời gọi nhiều lần hãy đến lo các bổn phận xưng tội rước lễ dịp Phục sinh; Chúa nhật nào em cũng hứa là sẽ làm, nhưng rồi em đã không giữ lời hứa. Một Chúa nhật nọ, sau các cử hành thánh, em bắt đầu chơi sinh động hết cỡ nói. Trong khi em chạy mọi phía, vừa chạy vừa nhảy, ướt đẫm mồ hôi, mặt em đỏ bừng khiến em không còn biết được là mình đang ở trên thế giới này hay trong một thế giới khác, cha liền vội vã hết sức gọi em lại, xin em đi theo cha vào trong phòng áo để giúp cha hoàn tất một chuyện. Em đã muốn đến trong tư thế em đang là, với chỉ bộ áo sơ mi thôi; không, cha nói với em, con phải mặc áo gi-lê vào rồi mới tới. Khi chúng tôi đến phòng áo, cha dẫn em lên khu ca đoàn, rồi nói thêm cùng em:

–  Con hãy quì trên chiếc bàn quì này.

Em quì; nhưng em muốn kéo lê ghế quì sang một bên.

–  Không, cha nói thêm, con hãy để mọi cái đúng ở chỗ của nó.

–  Cha muốn con làm gì?

–  Đi xưng tội.

–  Con chưa chuẩn bị.

–  Cha biết.

–  Vậy thì sao?

–  Vậy thì con hãy chuẩn bị, rồi con đi xưng tội.

–   Tốt quá, thiệt tốt quá, em thốt lên; con thực sự cần xưng tội; con thực sự cần xưng tội, cha đã làm cho con điều thiệt tốt là đem con vào cách thế này, nếu không, do sợ chúng bạn, con đã không đến xưng tội.

Trong khi cha đọc ít kinh nhật tụng, thì cậu bé đã dọn mình xong; rồi em đã xưng tội một cách khá tốt lành và cám ơn Chúa cách rất sốt sắng. Kể từ đó em ở luôn bền bỉ trong số những em luôn kiên trì hoàn thành các nhiệm vụ tôn giáo của em. Thế rồi em thường kể lại sự kiện này cho chúng bạn của em nghe rằng Don Bosco đã dùng một chiến thuật tuyệt vời để bắt con sáo sa vào tròng.

Đêm sắp xuống, một hồi chuông rung ra hiệu, tất cả tập họp tại nhà thờ, tại đó mọi người cầu nguyện một chút hay lần hạt cùng với kinh Truyền Tin, và mọi sự kết thúc với bài hát Ngợi khen Chúa đến muôn đời v.v…

Ra khỏi nhà thờ, cha đi vào giữa chúng, đồng hành cùng chúng trong khi chúng hát vang hay la hét. Sau khi đã leo đến bùng binh Rondò 362, các em còn hát lên vài đoạn của Sách thánh ca ngợi khen Thiên Chúa, rồi hẹn hò nhau Chúa nhật tới, cùng chào nhau to tiếng một buổi chiều tốt lành, rối ai nấy về nhà mình.

Đây là một cảnh ra về từ Nguyện xá thật độc nhất. Ra khỏi nhà thờ, từ mỗi người vang lên cả ngàn lần lời chúc nhau “buổi tối vui nhé, vui nhé…”, mà không sao dứt ra được khỏi đám đông các bạn hữu. Cha có nói mãi cũng vô ích:

–  Các con về nhà đi, tối rồi, cha mẹ các con đợi các con.

Hoàn toàn vô ích. Cha phải để cho chúng tiếp tục tụ tập; sáu trong số những em cường tráng nhất bện các cánh tay lại thành một chiếc ghế trên đó, như trên một chiếc ngai cha được ép ngồi lên363  Chúng xếp thành nhiều hàng trật tự, rước Don Bosco trên cái ngai làm bằng những cánh tay đó, cao hơn hẳn nhưng bạn có thân hình cao lớn nhất, và vừa tiến bước vừa ca hát, cười vang và hét vang cho tới bùng binh thường gọi là Rondò. Tại đó chúng còn hát thêm một vài bài thánh ca, rồi kết bằng bài ca long trọng “Ngợi khen Thiên Chúa đến muôn đời”. Thế rồi tất cả giữ im lặng như tờ, để cha có thể khi đó cầu chúc cho tất cả “Các con hãy vui hưởng một buổi tối tốt lành và một tuần lễ hạnh phúc!”. Tất cả đều trả lời to bao nhiêu có thể “Chúc cha buổi tối tốt lành”. Vào lúc đó, cha được hạ xuống khỏi ngai của cha; mỗi em trở về với lòng gia đình của các em, trong khi một vài bạn trong số các bạn lớn đi theo cha cho tới tận nhà, và cha thì nửa chết nửa sống vì mệt nhoài.


Chú thích

354 Những công việc được ông Pinardi cho thi hành đã thực sự chuyển biến mái che này thành một căn phòng dài 15m và rộng 6m, có thể dùng làm nhà nguyện, và hai phòng nhỏ khác, một làm phòng áo, và một làm phòng chứa đồ đạc.

355 Có vẻ như Don Bosco đã mơ thấy câu được viết trên tại ba nơi, trong ba thời gian khác nhau, với các hình thức hơi khác nhau một chút.

(1) Dịp thứ nhất xin xem giấc mơ được kể trong chương 31; (2) còn dịp thứ hai thì có liên quan tới “nhà nguyện” thuộc căn nhà Pinardi như nêu lên ở đây;(3), nhưng ba mươi năm sau, tức lần thứ ba, khi xây xong Thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ, Don Bosco có viết thêm một nhận định ở phía mác cuốn bản thảo Hồi ký Nguyện xá: “Cho dù những dự định của trời có khác!” Vậy là khi ấy, Don Bosco có đọc trên phía trước căn nhà có khả năng chứa 200 em trai câu tương tự: Câu đó là: “Hic nomen mecum, hin inde gloria mea” [ Ở đây tên của Ta, từ phía này và phía kia sẽ phát đi vinh quang của Ta”]. “Từ phía này và phía kia”, tức là từ hai bên của con đường Giardiniera, một bên là Nguyện xá mới phát sinh, bên kia là “Cánh Đồng Của Giấc Mơ” tạo thành nơi mà thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ mọc lên. Vậy giấc mơ thứ ba này ứng vào thánh đường này!

356 Xem ra việc biến mái dại ra trên thành nhà nguyện khó có thể làm xong trong vòng một tuần lễ. Phải coi như có một thỏa thuận miệng vào giữa tháng ba, và như vậy việc tiến hành công việc sửa sang lại nơi đó theo hợp đồng mới kịp được. Có thể có sự góp sức của trẻ Nguyện xá!

357 Phần trong ngoặc [ … ] Don Bosco để trống. Tờ Ban năng quyền làm phép và thánh hiến nhà nguyện do Đức Tổng Giám mục Fransoni ký ngày 10.4.1846 , tức nhằm ngày thứ sáu tuần thánh. (Xem ASC F 593).

358 Chúa nhật ngày 12, có thể Don Bosco đã cử hành thánh lễ Phục sinh tại đây. Xin xem ghi chú kế tiếp.

359 Trong tờ Ban năng quyền trên, có trao cho cha Borel nhiệm vụ thánh hiến nhà nguyện. Ở phía sau cha Borel có ghi ngày ngài làm phép thánh hiến nhà nguyện là Thứ hai 13.4.1846 (Xem ASC F 593). Có thể trước ngày thánh hiến chính thức nhà nguyện này nhằm ngày thứ hai sau Phục sinh, vào Chúa nhật Phục sinh, Don Bosco đã cử hành thánh lễ Phục sinh với các học sinh Nguyện xá tại đây.

360 Vào lúc Don Bosco mệt và bị căng thẳng, có những vị đã rời Don Bosco. Bây giờ các vị trở lại tiếp tục công việc với Don Bosco. Trong số đó phải kể: Cha Trivero (1816-1894): gia đình ngài phục vụ hoàng cung, ngài là người canh giữ nhà nguyện khăn liện Chúa Giêsu thuộc nhà thờ chính tòa Tôrinô.

Cha Giacinto Carpano (1821-1894). Thụ phong linh mục năm 1844, cùng với cho Ponte làm việc tại các Nguyện xá, nâng đỡ các thanh thiếu niên bị bỏ rơi tại nhà riêng của ngài, tìm việc làm cho chúng, cũng thăm viếng các tù thanh thiếu niên. Ngài là người trang trí cho nhà nguyện Pinardi. Có lẽ ngài xa Don Bosco trong thời Nguyện xá lưu động, nhưng khi Don Bosco lâm bệnh, ngài là cánh tay mạnh bên cạnh cha Borel lo cho Nguyện xá, và sau này giúp đỡ Don Bosco cả bằng thời gian lẫn tiền bạc. Ngài là giám đốc đầu tiên của Nguyện xá thánh Lu-y.

Tiến sĩ thần học GB Vola (1806-1872) sau này làm giám đốc Nguyện xá Thiên Thần Bản Mệnh.

Cha tiến sĩ Roberto Morialdo (1815-1882) anh em họ với thánh Leonardo Morialdo (1828-1900), Đấng sáng lập nữ Tu hội thánh Giuse. Cả hai vị đã giúp Don Bosco rất nhiều. Riêng cha Roberto Morialdo làm giám đốc Nguyện xá Thiên Thần Bản mệnh từ năm 1852, và dấn thân rất sâu vào các kế hoạch của Don Bosco.

361 Phải hiểu là thời xưa Thánh lễ đọc bằng tiếng Latinh, nên giảng Phúc âm mới làm sau thánh lễ.

362 Điểm gặp giữa con đường Nữ hoàng Margarita và con đường Valdocco, nơi đây nổi tiếng vì các cuộc hành quyết các tội nhân qua việc treo cổ. Nay có tượng thánh Cafasso bên một người bị kết án, một sự tưởng nhớ cảm kích sứ vụ linh mục đặc sủng của ngài.

363 Bức biểu ngữ treo ở lối vào Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô vào ngày phong Chân phước cho Don Bosco (2.6.1929) họa lại cảnh đám đông các trẻ rước Don Bosco trên một chiếc ghế bành, với dòng chữ sau đây:

Nổi hứng bởi một tình yêu độc nhất, các bạn trẻ vui vẻ la vang khi nâng cha Gioan trên những cánh tay, và kiệu cha đi…

Chúa nhật lễ Lá 1846Vua cứu nguyện xá