Khai sinh trường dạy ban tối

CÁC LỚP HỌC NGÀY CHÚA NHẬT - CÁC LỚP HỌC BAN TỐI

Tại nhà thờ thánh Phanxicô, cha đã cảm nhận thấy sự cần thiết phải có các lớp dạy học nào đó. Một số các bạn trẻ tuổi rất lớn, mà vẫn còn rất ngu tối về các chân lý đức tin. Đối với chúng, việc dạy bằng lời suông sẽ kéo dài rất lâu và hơn nữa rất buồn chán cho chúng; do đó chúng dễ dàng bỏ không tham dự nữa. Cha đã cố gắng dạy chúng học hành kiểu trường lớp một chút, nhưng không thể làm được do thiếu các nơi chốn và các thầy dạy thích đáng sẵn sàng đến giúp chúng tôi. Tại viện Nương náu và rồi tại căn nhà cha Moretta,368 chúng tôi đã khai trương một loại trường Chúa nhật, và khi chúng tôi đến Valdocco chúng tôi cũng bắt đầu trường lớp ban tối đều đặn nữa.

Để đạt được một kết quả tốt nào đó, cần phải chọn dạy một môn thôi, trong từng đợt một. Chẳng hạn trong một hay hai Chúa nhật, ta cho đọc hết, rồi tái đọc lại toàn bộ các mẫu chữ abc và các phụ âm đi kèm theo các nguyên âm; thế rồi ta lấy ngay cuốn giáo lý nhỏ xoay quanh đó ta giúp các em đánh vần và đọc cho tới khi các em có thể đọc một hay hai trong số các câu hỏi đầu tiên của cuốn giáo lý, và bấy nhiêu tạo nên bài học cho các em trong suốt cả tuần lễ. Chúa nhật tới, ta cũng cho các em nhắc lại cùng một nội dung, nhưng có thêm vào các câu hỏi và các câu trả lời khác. Bằng cách đó trong tám ngày lễ cha có thể đạt tới mức là một số em đã có thể tự mình đọc và học toàn bộ những trang sách giáo lý. Điều này cứu được nhiều thời giờ. Với phương pháp cũ, các bạn lớn tuổi hơn buộc phải lui tới các lớp giáo lý nhiều năm mới có thể được dạy dỗ đủ duy chỉ để tham dự bí tích thống hối.

Những cuộc thử nghiệm các lớp học Chúa nhật đã đem lại lợi ích cho nhiều em, nhưng vẫn không đủ; bởi lẽ không ít em, do trí rất chậm, đã hoàn toàn quên cái mà Chúa nhật trước các em đã được học. Thế là các lớp học tối được đưa vào. Các lớp này đã được bắt đầu ngay tại khu viện Nương náu, rồi được tiếp tục với sự đều đặn nhiều hơn tại căn nhà cha Moretta, và còn tốt đẹp hơn thế nhiều khi vừa có thể có chỗ vững bền tại Valdocco. Các lớp học ban tối sản sinh hai hiệu quả tốt đẹp: Chúng tác động các bạn trẻ đến tham dự để rèn luyện mình về chữ nghĩa, điều mà chúng cảm thấy cần thiết một cách nghiêm trọng; đồng thời chúng tạo một sự thuận lợi lớn cho việc học hỏi đạo là điều tạo nên mục tiêu cho các nỗi quan tâm của chúng tôi.

Nhưng lấy đâu ra biết bao nhiêu các giáo viên trong khi mà mỗi ngày đều cần bổ sung thêm các lớp? Để cung ứng cho nhu cầu này, cha đã bắt đầu dạy dỗ cho một số các bạn trẻ của thành phố. Cha dạy các em này tiếng Ý, tiếng La tinh, tiếng Pháp, toán học hoàn toàn miễn phí, nhưng bó buộc các em phải đến gúp cha dạy giáo lý và dạy các lớp Chúa Nhật và các lớp ban tối của cha. Các giáo viên nhỏ của cha này, ngay vào thời đó là tám hay mười em, còn tiếp tục tăng lên về con số, và với các em, cha đã bắt đầu khâu các học sinh. 369

Khi cha ở Trường Đào Tạo Các Giáo Sĩ Thánh Phanxicô Assisi, thì trong số các học trò của cha, cha có những em Gioan Coriasco, bây giờ là Thầy Dạy Mộc; Phêlixê Vergnano, bây giờ là người buôn sợi; anh Phaolô Đelfinô, bây giờ là giáo viên khóa kỹ thuật. Tại Khu Viện Nương Náu, cha có các học trò là anh Antôniô Melanotte, bây giờ là chủ tiệm hàng tạp hóa, anh Gioan Melanotte, bây giờ là chủ tiệm mứt, anh Felicê Ferrero, bây giờ là người môi giới; anh Phêrô Ferrero là nhạc sĩ, anh Gioan Piola, bây giờ là thợ mộc, chủ tiệm đồ gỗ. Thêm vào con số các học trò này còn có Lu-y Genta, Vittorio Morna, và những người khác là những người không tham gia lớp học cách liên tục và lâu dài. Cha đã phải tốn kém rất nhiều thời giờ và rất nhiều tiền bạc, nhưng thường thường vào lúc cha cần hơn cả, thì họ lại bỏ cha.

Cộng thêm vào con số các bạn trẻ này còn có các ông khác của thành phố Tôrinô. Những người kiên trì là ông Giuse Gagliardi, người bán hàng trang trí, ông Giuse Pino có cùng một nghề như ông Gagliardi, ông Vittorio Ritner, thợ kim hoàn và những người khác. Các linh mục thì giúp cha cách riêng trong việc cử hành thánh lễ, việc giảng thuyết và dạy các lớp giáo lý cho các bạn đã trưởng thành hơn.

Một khó khăn to lớn là vấn đề về sách vở, bởi vì khi đã học xong sách giáo lý cấp nhỏ, thì không còn có thêm sách học khác nữa. Cha đã tra cứu tất cả các truyện Lịch sử thánh nhỏ thường được dùng trong các trường học của chúng ta, mà cha không thể nào tìm được bộ nào thỏa mãn được nhu cầu của cha. Nào là thiếu tính bình dân, có các sự kiện không thích hợp, các câu hỏi thì dài và lỗi thời, đấy là những khiếm khuyết chung. Thế rồi nhiều dữ kiện được trình bày trong một cách thế khiến chúng đặt đời sống luân lý của các bạn trẻ trong sự nguy hiểm. Đằng khác tất cả các sách trên đều ít chú tâm nêu lên những điểm phải giúp tạo nên nền tảng cho các chân lý của đức tin. Chúng ta cũng phải nói y như trên liên quan đến các dữ kiện về việc thờ phượng bên ngoài, về luyện tội, về việc xưng tội, về Thánh Thể và những chuyện tương tự.

Sau cùng, để cung cấp cho phận vụ giáo dục này cái mà các thời buổi này đang khẩn thiết và tuyệt đối đòi hỏi, cha quyết tâm dấn thân biên soạn bộ Lịch sử thánh mà ngoài lời lẽ dễ hiểu và văn thể bình dân ra, nó còn phải được sàng lọc khỏi các khuyết điểm kể trên. Đó là lý do đã thúc đẩy cha viết và cho in bộ sách mang tên là Lịch sử thánh được dùng trong các trường học. Cha không thể bảo đảm đây là một công trình trau chuốt, nhưng cha đã làm với tất cả thiện chí của mình nhằm đem lại lợi ích cho giới trẻ. 370

Sau vài tháng thực hiện trường học ban tối này, chúng tôi đã có thể cống hiến một cuộc trình diễn công khai các kết quả của trường học ban tối của chúng tôi, trong đó các học sinh được hỏi về toàn bộ lịch sử thánh, về địa lý xoay quanh nó,với tất cả các câu hỏi thích đáng. Quan sát viên là cha Aporti nổi tiếng,371 ông Boncompagni 372, Tiến sĩ thần học Phêrô Baricco, Giáo sư Giuse Rayneri 373, và tất cả đã nhiệt liệt vỗ tay hoan hô cuộc thí nghiệm này.

Được khích lệ bởi các tiến bộ trong các lớp học Chúa nhật và ban tối, bổ sung cho lớp học đọc và viết, chúng tôi đã thêm các lớp số học và vẽ. Đây là lần đầu tiên tại các xứ sở của chúng tôi có mặt những loại trường như vậy. Khắp mọi nơi người ta nói đến nó như là một cái mới rất vĩ đại. Nhiều giáo viên và các nhân vật nổi tiếng thường đến thăm chúng tôi. Chính Hội đồng thành Phố cũng sai một Ủy ban với ngài Kỵ sĩ hàng ủy nhiệm Duprè 374 dẫn đầu, với một nhiệm vụ chuyên biệt được trao là đến thẩm định xem những kết quả đã được công bố ở trên về các trường lớp ban tối có phải là đúng như vậy chăng. Chính các vị đã hỏi về cách đọc, về tính toán, về thuật kể chuyện, và họ đã không thể cắt nghĩa tại sao [các thanh niên trẻ này], thực sự còn là chưa biết chữ cho tới mười tám tuổi, thậm chí hai mươi tuổi, lại có thể trong thời gian ít ỏi tiến bộ vượt bậc như thế này trong việc tiếp thu sự dạy dỗ và giáo dục. Khi thấy một số đông lớn lao như thế các bạn thanh niên trẻ này thay vì đi lang thang ngoài phố, biết tập họp lại vào ban tối, tham dự việc học hành, các vị đó đã lên đường lòng đầy phấn khởi. Sau khi các sự kiện được báo cáo đầy đủ lên, Hội đồng thành Phố đã ban một phần thưởng hằng năm là 300 frăng, phần thưởng này được nhận cho đến năm 1878 khi, không thể hiểu vì lý do nào, số tiền trợ cấp đó lại bị cất đi để ban cho một trường khác. 375

Kỵ sĩ Gonella, mà lòng nhiệt thành và đức bác ái còn để lại tại Tôrinô một sự ghi nhớ vinh quang và bất tử, khi đó là Giám đốc Công cuộc Trường dạy giới ăn xin 376, cũng đến nhiều lần để thăm chúng tôi vào năm ấy (1847), và đã đem áp dụng chính các trường lớp và chính phương pháp như trên vào trong công cuộc được trao phó cho ngài. Nhưng sau khi đã báo cáo mọi chuyện lại cho các vị quản trị của công cuộc của ngài, thì các vị ấy trong một buổi họp toàn ban, đã ra quyết nghị thưởng một ngàn frăng cho các trường lớp của chúng tôi. Hội Đồng Thành Phố cũng theo gương ông, và chỉ trong khoảng ít năm, các trường ban tối được phổ biến trong tất cả các thành phố chính của xứ Piemonte.

Còn một nhu cầu nữa xuất hiện: một cuốn sách phục vụ cho các việc sùng kínhthích nghi với các thời điểm. Có rất nhiều các cuốn sách, mà do những ngòi bút có giá trị viết, đang lưu hành trong tay mọi người. Nhưng những cuốn sách này nói chung được viết cho những người lớn, có học, và hơn thế nữa, có thể phục vụ cho các người Công giáo, Do Thái và Tin Lành. Bên cạnh đó có nhiều cuốn sách không thích hợp với giới trẻ 377 càng ngày càng len lỏi vào dân chúng, cha đã lo biên soạn một cuốn sách thích hợp với giới trẻ, ích lợi nhờ vào những tư tưởng tôn giáo của nó, dựa trên Kinh Thánh, một cuốn sách trình bày các nền tảng của đạo công giáo với sự vắn tắt và sự sáng sủa tối đa. Đó là cuốn Hành trang người trẻ [Il Giovane provveduto].378

Cũng cần phải làm cùng một chuyện như trên cho việc dạy môn số học và hệ thống đo lường. Đúng là việc sử dụng hệ thống mét không bó buộc cho đến năm 1850; nhưng nó đã được đưa vào học đường kể từ năm 1846. Cho dù nó đã được đưa vào một cách hợp pháp trong các học đường, nhưng quả thật còn thiếu những sách giáo khoa. Cha đã cung cấp cuốn: Hệ thống mét thập phân được chuyển thành đơn giản nhất, v.v…


Chú thích

368 Đúng ra nhà Pinardi, nhà Moretta cũng không cách nhau bao xa, và hiện này đều nằm trong khu nhà mẹ salêdiêng ở Valdocco.

369 Kể từ khi Don Bosco thiết lập nội trú, các học sinh chia thành hai nhóm: nhóm học chương trình phổ thông và nhóm học nghề. Sau này tại các trường Don Bosco, cũng có thể có thêm ngành học về canh nông.

370 Don Bosco dùng từ ngữ “Lịch sử thánh”, nay chúng ta gọi là “Lịch sử cứu độ”. Sách của Don Bosco muốn cho thấy các tín điều của đạo Công giáo đều có nền tảng trong Thánh Kinh. Ngày nay nhờ khoa học Kinh Thánh hiện đại, sự hiểu biết về Kinh Thánh đã đạt những bước tiến đáng kể so với thời đại Don Bosco. Sách Kinh Thánh được phổ biến rộng rãi. Nhưng tại Việt Nam chúng ta, có lẽ nhận định của Don Bosco vẫn còn tính cách thức thời: Cần phải làm sao để mở kho tàng Kinh Thánh ra cho thế giới bình dân.

371 Cha Ferrante Aporti (1791-1858). Sinh tại Mantova, đã theo học trường Cao đẳng Giáo sĩ tại Vienna, dạy khoa chú giải Kinh Thánh và lịch sử Hội Thánh tại chủng viện Cremona, có công khai sinh các trường nhà trẻ tại Cremona. Năm 1844 đến Tôrinô giảng huấn các khóa đặc biệt mà từ đó phát sinh các trường về phương pháp (Trường sư phạm) tại Piemonte. Do ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng chống lại quân Áo, ngài đến Piemonte vào năm 1848, được vua Carlô Albertô phong làm nghị sĩ, và năm 1849 được chọn là chủ tịch của Hội đồng Đại học thủ đô và của Ủy Ban Thường Trực Các Trường cấp III.

372 Công tước Carlo Boncompagni (1804-1887) chủ xướng vào năm 1848 luật thiết lập việc kiểm soát của nhà nước về giáo dục, bị giới giáo sĩ phản đối dữ dội. Ông cũng đóng vai trò lớn trong việc sát nhập hai nước Tuscana và Modena vào nước Piemonte.

373 Cha Giuse Rayneri (1809-1867) là giáo sư - sư phạm và nhân học tại Đại học Hoàng gia Tôrinô. Ngài đã từng nói cho các học sinh của ngài: “Nếu các anh muốn thấy khóa sư phạm đang tiến hành trên hiện trường, hãy đến Nguyện Xá và xem Don Bosco hoạt động” (MB III, 21).

374 Ông là chủ nhà băng Tôrinô, một thành viên Hội đồng thành phố, giúp đỡ Don Bosco trong Ủy ban xổ số (1851-1852), và giúp đỡ Nguyện xá bằng nhiều cách.

375 Năm 1878, số tiền này được chuyển cho trường các học sinh chuyên nghiệp tại đường Valdocco, do cha Cocchi lập, có Linh mục tiến sĩ thần học Giuse Berizzi làm giám đốc đầu tiên, được kế vị bởi tiến sĩ thần học Leonardo Morialdo. Trường này khác với Nguyện xá, có phép của Hoàng gia gọi là “Exequatur” (Cứ thế mà thi hành!).

376 Công cuộc này khai sinh năm 1770, có văn phòng chính tại Tu viện các anh em hèn mọn, có phép của nhà vua năm 1776. Trước hết những người ăn xin được tham dự thánh lễ, được dạy giáo lý và các nghi thức, và trong những lúc đó họ cũng được phát bánh và đồ bố thí. Từ năm 1830 đến 1850, việc dạy dỗ người lớn được thay bằng việc dạy giáo lý và dạy học tiểu học cho các trẻ em và các sự huynh La San từ Pháp cũng như các nữ tu thánh Giuse từ Savoia được mời đến để đảm nhận việc dạy dỗ này.

377 Trong khi Don Bosco luôn thân tình với những cá nhân thuộc các niềm tin khác, thì ngài, con người ở thời đại trước phong trào đại kết vẫn luôn cứng rắn và không khoan nhượng trong việc kết án và chống lại những người được người Công giáo cho rằng họ đi ngược với niềm tin Công giáo.

378 Cuốn sách này có một thành công vượt mức trong lịch sử tôn giáo nước Ý, không chỉ đơn giản là cuốn sách của lòng sùng kính. Don Bosco nhắm dùng nó như là một phương pháp và một con đường sống. Mục tiêu này được đem áp dụng ở nhiều phần khác nhau của cuốn sách. (1) Phần đầu cắt nghĩa một đường lối tôn giáo để hiểu biết về cuộc hiện hữu của mình, về việc tạo dựng, về sự lớn lên của tuổi thiếu niên, và những biểu lộ hằng ngày của cuộc sống; rồi đến những nền tảng của đạo Công giáo, một thứ hộ giáo được dùng để cảnh giác những người công giáo vào năm 1850, và được đưa vào cuốn Hành trang người Trẻ trong năm sau đó.

Vua cứu nguyện xáCơn bệnh nặng