Đầu đời linh mục

NHỮNG KHỞI ĐẦU CỦA THỪA TÁC VỤ THÁNH - BÀI GIẢNG TẠI LAVRIANO VÀ GIOAN BRINA

Trong năm đó (1841), cha xứ của cha thiếu cha phó, nên cha hoàn thành nhiệm vụ này trong năm tháng. Cha cảm thấy rất hứng thú với công việc này. Cha giảng trong tất cả các Chúa nhật, thăm viếng những người ốm đau, cho họ chịu các bí tích, ngoại trừ phép giải tội, vì cha chưa thi để được ban phép thực hành quyền giải tội 229. Cha chủ trì lễ tang, giữ các sổ sách giáo xứ trong trật tự, làm những xác nhận về tình trạng khó nghèo 230 và các chuyện khác nữa. Nhưng niềm vui sướng của cha là được dạy giáo lý cho trẻ con, vui chơi và nói chuyện với chúng. Chúng thường từ Morialdo đến thăm cha; khi cha trở về nhà, chúng luôn bâu lấy cha. Thế rồi trong cả xứ quê này, bọn trẻ bắt đầu trở thành nhóm bạn thân thiết. Khi cha ra khỏi nhà xứ, cha luôn được cả một đám đông các trẻ em đi theo, và bất cứ nơi nào cha đến, cha luôn được bao quanh bởi những người bạn bé nhỏ của cha, chúng vui chơi đầm ấm với cha.

Vì cha có được một sự dễ dãi lớn lao trong việc trình bày lời Chúa, nên cha thường được kiếm tìm để đi giảng, nhất là trong các dịp đại lễ tại những làng bên cạnh. Cha đã được mời giảng lễ thánh Benignus tại Lavriano vào cuối tháng 10 năm đó. Cha vui sướng nhận lời, vì đó là quê hương của người bạn và đồng môn với cha là cha Gioan Grassiano 231, giờ đây là cha xứ Scalenghe. Cha đã ước ao tôn vinh dịp lễ trọng đó, và do đó cha đã chuẩn bị và viết bài giảng bằng ngôn từ bình dân nhưng trong sáng; cha đã ghi bài giảng vào trí nhớ, tin chắc rằng mình sẽ được vinh dự nhờ đó. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho một bài học kinh khủng để sửa dạy thói hư vinh của cha. Vì đó là ngày lễ, nên trước khi đi, cha đã phải cử hành thánh lễ cho dân trong xứ. Do đó cha phải đi bằng ngựa để tới đó kịp giảng. Đi được nửa đường vừa chạy nước kiệu vừa phi tẩu mã, cha đã tới thung lũng Casaborgone nằm ở giữa xứ Cinzano và Berzano khi từ một cánh đồng kê một đàn chim sẻ thình lình cất cánh, tiếng bay ồn ào khiến con ngựa khiếp hãi vuột chạy tứ tung trên con đường 232, trên cánh đồng và trên đồng cỏ. Cha giữ chặt lấy chiếc yên ngựa, nhưng nhận thấy chiếc yên ngựa đang ngả xuống dưới phía bụng ngựa, cha cố gắng nghiêng người lại để giữ thế quân bình; nhưng chiếc yên bị xoay trệch chỗ đã tung cha lên cao, và cha ngã chúi đầu xuống, nhào vào một đám đá đã bị chẻ vỡ. Một người từ ngọn đồi gần đó đã nhìn được cái tai nạn đáng thương này, và cùng với một tên đầy tớ, ông ta chạy lại cứu nạn cho cha, và thấy cha đã bất tỉnh, ông ta đưa cha về nhà ông ta và đặt cha nằm vào một chiếc giường tốt nhất ông ta có. Ông chăm sóc cho cha bằng vô vàn sự chăm nom ân cần nhất; một giờ sau cha hồi tỉnh và biết mình đang ở nhà một người khác.

–  Xin cha đừng ngại, ông chủ nhà nói với cha, cha đừng lo nghĩ vì đang ở tại một nhà người khác. Ở đây cha sẽ không thiếu điều gì. Con đã sai người đi tìm thầy thuốc; và một người khác đi bắt con ngựa. Con là một người dân quê, nhưng con có đủ những thứ con cần. Cha có thấy đau không?

–  Xin Thiên Chúa trả công cho biết bao nhiêu là tình bác ái của bác, hỡi ông bạn tốt lành của tôi. Tôi nghĩ là không có gì hệ trọng lắm; có lẽ tôi bị bể vai, bởi tôi không thể cử động nó được nữa. Tôi đang ở đâu đây nhỉ?

–   Cha đang ở trên đồi Berzano, tại nhà của Giovanni Calosso, biệt danh là Brian [Sương giá] 233, một người tôi tớ khiêm hạ phục vụ cho cha. Con cũng đã từng đi lại quanh vùng và cũng đã từng phải cần đến những người khác. Ô, biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra cho con khi đi dự các hội chợ và các chợ phiên!

–  Trong khi chúng ta đợi thầy thuốc đến, bác cứ kể cho tôi nghe thêm về câu chuyện.

–   Ôi, biết bao nhiêu chuyện con có thể kể ra; Cha hãy lắng nghe câu chuyện này. Vài năm trước đây, vào thu, con đã đi tới Asti với con lừa của con để mua sắm lương thực cho mùa đông. Khi trở về, con đi tới các thung lũng làng Morialdo, thì con lừa khốn khổ của con, do quá tải, đã ngã vào một hố bùn và nằm bất động ở đó, giữa đường. Tất cả nỗ lực vực dậy nó đều vô ích. Lúc đó vào giữa đêm, trời tối lắm và mưa nữa. Con không biết phải làm gì, liền gọi to lên, kêu cứu. Sau vài phút, có tiếng người đáp lại con từ một cái nhà nhỏ gần đó. Một thầy chủng sinh tới, cùng với người anh của mình, và hai người khác nữa, đem theo đèn đốt sáng. Họ đã giúp con kéo con lừa lên, đưa nó ra khỏi hố bùn, và đưa con cùng tất cả các đồ đạc của con vào nhà của họ. Con thì nửa chết nửa sống; mọi thứ đều bị phủ bởi bùn. Họ cho con tắm giặt sạch sẽ, và bồi dưỡng cho con bằng một bữa tối tuyệt vời, rồi cho con một cái giường vô vàn êm ấm. Đến sáng, trước khi đi, con đã muốn trả tiền cho họ vì tất cả những chuyện họ đã làm cho con; nhưng thầy chủng sinh từ chối hết, nói rằng: - Cũng có thể ngày mai chúng tôi lại cần tới ông bạn?!

Nghe những lời này cha xúc động và ông bạn cha nhìn thấy những giọt nước mắt của cha. Ông ta mới nói với cha:

–  Cha cảm thấy đau hay sao?

–  Không, cha trả lời, tôi vui quá khi nghe chuyện này, khiến tôi xúc động.

–   Nếu con đã tìm ra được chuyện gì để làm cho gia đình này thì hay quá!..

Họ là những người tốt lành quá!

–  Họ tên là gì?

–    Là gia đình Bosco, thường gọi nôm na là những “anh em Bosco nhỏ nhắn”234  Nhưng sao cha lại tỏ ra cảm động đến thế? Có lẽ cha biết gia đình đó chứ?.. Thế thầy chủng sinh đó vẫn còn sống và khoẻ mạnh chứ?

–  Ông bạn tốt của tôi ơi, thầy chủng sinh đó bây giờ là ông linh mục này đây, người mà ông bạn đã đáp trả ngàn lần hơn cái mà người ấy đã làm cho ông bạn. Đó chính là cái con người đang nằm tại nhà ông bạn đây, ngay trên cái giường này. Chúa quan phòng đã muốn cho chúng ta biết được qua sự việc này rằng ai làm gì, thì sẽ đón chờ được chuyện đó.

Ai cũng có thể tưởng tượng ra được nỗi ngạc nhiên, vui sướng của người Kitô hữu này và của cha, mà trong tai nạn, Thiên Chúa đã trao cha vào trong tay một người bạn như thế này. Bà vợ của ông, em gái của ông, các thân nhân của ông cùng các bạn hữu thật vui sướng hết sức khi biết rằng người mà họ đã bao lần nghe nhắc đến, thì đã đang ở trong nhà của họ. Thế rồi chẳng bao lâu thầy thuốc tới, ông thấy là cha không bị gẫy xương gì cả, và do đó, trong ít ngày, cha lại cưỡi ngựa được, để có thể lại lên đường trở về xứ của mình. Ông Gioan Brina đi theo cha cho đến tận nhà, và cho tới khi ông ta còn sống, chúng tôi đã luôn luôn duy trì những ghi nhớ tình bạn hữu thân thiết nhất.

Sau lần cảnh cáo này, cha đã lấy quyết định kiên vững là trong tương lai, cha sẽ chuẩn bị các bài giảng của cha vì vinh danh cao cả của Thiên Chúa, chứ không phải để tỏ mình ra là người học thức và có chữ nghĩa.


Chú thích

229 Tân linh mục phải thi để chứng tỏ khả năng của mình. Don Bosco được tạm ban quyền giải tội ngày 30.11.1842, và quyền giải tội vĩnh viễn ngày 10.6.1843.

230 Để cho một người được hưởng trợ cấp xã hội.

231 Cha Grassino (1820-1902) vào chủng viện năm 1840, giúp Don Bosco làm Giám đốc Nguyện xá Borgo Vanchiglia (Tôrinô) và phó giám đốc Nguyện xá Valđốccô, sau làm Giám đốc Tiểu chủng viện Giaveno khi chủng viện còn ở dưới quyền Don Bosco. Ngài không trở thành Salêdiêng.

 232 Gioan Bosco học cưỡi ngựa năm 1832, sau năm cậu phải học thông qua ba lớp. Do đó cần ôn tập lại cho chắc chắn, cậu đã theo học hè tại Castelnuovo với cha phó của giáo xứ, và vì thế cậu được ở lại tại nhà xứ.

Để bù lại, cha xứ Castelnuovo khi ấy là cha Dassano cho cậu chăm sóc con ngựa của ngài vào các giờ rỗi, nhờ thế Gioan Bosco có giúp học cưỡi ngựa, thậm chí đã có thể đứng trên lưng ngựa khi ngựa phi nước đại. Thế những điều ấy không hẳn đảm bảo là Gioan đã hoàn toàn làm chủ việc cưỡi ngựa, bao gồm các yếu tố nền tảng, kể cả việc buộc yên ngựa, như trong trường hợp sắp xảy ra sau đây.

233 Tên đệm Brina [Sương giá] có thể phát xuất từ miền quê của chính ông ta!

234 Giống như Don Bosco, dòng tộc của ngài dáng người nhỏ nhắn, không cao.

Thụ phong linh mụcTrường đào tạo giáo sĩ Thánh Phanxicô Assisi