Chuyển tới Valdocco

262 THỰC THI CHỨC LINH MỤC - ĐẢM NHẬN MỘT CHỖ TRONG VIỆN NƯƠNG NÁU

(Tháng 9 năm 1844)

Trong thời gian đó cha đã bắt đầu giảng thuyết tại một số nhà thờ ở Tôrinô, trong Nhà thương Bác Ái, tại viện Dục Anh263 rèn luyện nhân đức, trong các nhà tù,264 tại trường Trung học thánh Phanxicô Paola, giảng các tuần tam nhật, cửu nhật hay các cuộc linh thao. Sau khi hoàn tất hai năm học luân lý, cha chịu sát hạch về phép giải tội265; nhờ vậy cha có thể với những thành quả lớn lao hơn vun trồng kỷ luật và luân lý, và lợi ích của phần hồn cho các bạn trẻ nam của cha trong các nhà tù, trong Nguyện xá, và tại bất cứ nơi nào cha hoạt động.

Thật là một điều an ủi cho cha là trong suốt tuần lễ, cách riêng là trong các ngày lễ được thấy tòa giải tội của cha được 40, 50 các bạn trẻ quây quần từng giờ, từng giờ để đến phiên mình đi xưng tội. Chuyện này là một sự tiến hành bình thường của Nguyện xá trong hầu như là ba năm, tức là cho tới cuối tháng 10 năm 1844 266. Trong khi đó Chúa quan phòng sắp chuẩn bị những chuyện, những đổi thay và cả những gian truân mới.

Vào cuối thời kỳ ba năm học luân lý,267 cha sắp phải đảm nhận một phận vụ nhất định nào đó của thừa tác vụ thánh. Người cậu già và suy yếu của Cômôllô là cha Giuse Cômôllô, cha xứ Cinzano, với ý kiến của Đức Tổng Giám Mục, đã xin cha đến giúp ngài quản trị giáo xứ. Nhà thần học Guala đã đọc cho cha viết lá thư cám ơn Đức Tổng Giám Mục Fransôni, trong khi chính cha đang chuẩn bị cha cho một chuyện khác268Một hôm cha Cafasso gọi cha đến với ngài và nói:

–   Bây giờ cha đã hoàn tất các khóa học của cha; thế là cha phải đi làm việc. Trong thời buổi này, mùa màng thì khá sung mãn. Cha cảm thấy đặc biệt thiên về chuyện gì?

–  Về chuyện mà cha vui lòng chỉ bảo cho con.

–    Có ba công việc: làm cha phó ở Buttigliera d’ Asti, phụ đạo luân lý tại Trường Đào Tạo Giáo sĩ, giám đốc một nhà thương nhỏ gần Viện Nương Náu

269. Cha muốn chọn công việc nào?

–  Công việc mà cha xét nên làm nhất.

–   Cha không thấy có khuynh hướng nghiêng về chuyện này hơn là chuyện khác sao?

–   Ý hướng của con nghiêng về việc chăm sóc cho giới trẻ270  Cha cứ hướng con làm gì tùy theo ý của cha: con nhận ra ý muốn của Chúa nơi lời khuyên của cha.

–  Vào lúc này cái gì chiếm cứ lấy lòng của cha? Cái gì đang quay cuồng trong tâm trí cha?

–  Trong lúc này con như thấy mình ở giữa đám rất đông các trẻ em đang kêu xin con giúp đỡ.

–   Vậy cha hãy đi nghỉ hè vài tuần lễ. Khi cha trở lại, tôi sẽ nói cho cha nơi cha sẽ đến làm việc.

Sau những ngày nghỉ 271, Cha Cafasso để trôi qua đi vài tuần lễ không nói năng gì với cha cả; cha cũng không hỏi ngài tí gì cả. Thế rồi một ngày kia, cha Cafasso nói với cha:

–  Tại sao cha không hỏi tôi đâu là nơi sẽ dành cho cha?

–   Bởi vì con muốn nhận ra ý Thiên Chúa trong quyết định của cha và con muốn không đưa ra một điều gì cả thuộc về ý muốn của con 272.

–  Cha hãy dọn va li của cha và hãy đi với cha Borel; cả hai cha sẽ là giám đốc của Nhà Thương Nhỏ thánh Philômêna; hai cha cũng hãy làm việc cho Công Cuộc Viện Nương Náu273  Trong khi đó Thiên Chúa sẽ đặt trong tay các cha tất cả những gì các cha phải làm cho giới trẻ.

Thoạt nhìn, thì một lời khuyên như thế xem ra có vẻ đi ngược lại các khuynh hướng của cha, bởi vì việc điều hành một nhà thương, việc giảng dạy và giải tội trong một trường gồm hơn bốn trăm thiếu nữ sẽ lấy hết thời giờ của cha để có thể làm được những việc khác. Tuy vậy đây quả chính là những ý muốn của trời cao, như là cha sẽ lập tức được đảm bảo về điều đó.

Ngay từ giờ phút đầu tiên khi cha được biết cha Borel, cha đã luôn luôn nhìn thấy nơi ngài một vị linh mục thánh thiện, một gương mẫu đáng ngưỡng mộ và phải được bắt chước. Mỗi khi cha có dịp nói chuyện với ngài, cha luôn luôn nhận được những bài học từ vị linh mục nhiệt thành đó, luôn nhận được những lời khuyên tốt khích lệ cha sống và hành động tốt đẹp. Trong ba năm trải qua tại trường Đào tạo giáo sĩ , đã nhiều lần cha được chính ngài mời gọi phục vụ các nghi thức thánh, giải tội, cùng với ngài đi giảng thuyết, đến mức độ là cha đã biết được, và một cách nào đó, đã thân quen với lãnh vực công việc của cha. Rất nhiều lần chúng tôi đã nói chuyện với nhau lâu giờ xoay quanh các luật lệ mình phải theo để giúp đỡ lẫn nhau trong việc lui tới các nhà tù, và hoàn thành các bổn phận được trao phó, và đồng thời hộ trực các bạn trẻ, mà đời sống luân lý của chúng và hoàn cảnh bị bỏ rơi của chúng luôn luôn yêu cầu một sự chú tâm hơn nữa của các linh mục. Nhưng phải làm sao đây? Phải tìm ra nơi đâu để qui tụ các bạn trẻ này? Cha Borel mới nói với cha:

–  Căn phòng được dành cho cha 274 có thể được dùng trong một thời gian để tụ họp các bạn trẻ lui tới nhà thờ thánh Phanxicô Assisi này. Khi chúng ta có thể đi tới căn nhà được chuẩn bị cho các linh mục gần Nhà thương Nhỏ, thì khi ấy chúng ta sẽ nghiên cứu một nơi tốt đẹp hơn.


Chú thích

262 Valdocco nằm giữa tường thành cổ của Tôrinô và con sông Đôra. Tên của nó có nghĩa là thung lũng (Valle) của ba vị thánh tử đạo (occisorum) là Octavius, Solutor và Adventor vào năm 300 sCN. Tại đây, cho tới thời Don Bosco, chưa có xứ đạo.

263 Có chừng 100 em.

264 Có bốn nhà tù tại Tôrinô.

265 Don Bosco được tạm thời ban năng quyền giải tội rồi ngày 10-6-1843 được vĩnh viện nhận năng quyền này.

266 Tức là cho tới lúc sắp bắt đầu niên học mới cho trường Đào tạo giáo sĩ , và Don Bosco phải dời Nguyện xá sang viện Nương náu như chúng ta sắp đọc đến.

267 Don Bosco học hai năm luân lý tại trường, nhưng cha Guala và cha Cafasso lưu ngài lại thêm một năm nữa, để làm việc tại đây với tư cách người phụ đạo giúp đỡ cho các học viên linh mục gặp khó khăn trong việc học hành.

268 Đức Tổng Giám mục Fransôni có ý định đưa Don Bosco về phụ giúp cho cha Cômôllô, nhưng hai cha Guala và Cafasso lại có một dự định khác.

269 Nữ bá tước Barôlô, đã sáng lập trên đường Cốttôlengô ba công cuộc: (1) Viện Nương náu [nay gọi là Trường Barôlô], lấy tên gọi từ Đấng Bổn mạng “Đức Mẹ là nơi Nương náu của kẻ có tội”, là một trạm dừng chân cho các cô gái điếm muốn cải tạo; (2) một trường nội trú dành cho các trẻ nữ bị bỏ rơi và trốn khỏi nhà dưới 14 tuổi, (3) một nhà thường nhỏ cho con gái, kính dâng cho thánh Philômêna. Cha Borel là tuyên úy của ba công cuộc này, và ngài xin thêm một vị trợ tá. Nguyện xá tụ họp tại khu dành riêng cho các linh mục của nhà thương chưa hoàn tất trong năm 1844-1845.

Bà tên thật là Giulietta Colbert de Maulévrier (1785-1864), người vợ góa không có con cái của bá tước Carlo Tancred Falletti di Barôlô (1782-1838), có văn hóa cao và rất giàu có, được triều đình quí trọng. Bà là nữ văn sĩ giỏi, sành nghệ thuật, salon của bà mở ra đón các quí khách như Balbo, Balzac, Cavour, Lamartine, Maistre, Pellico, Sclopis…

Bà rất đạo đức, chịu sự hướng dẫn thiêng liêng của cha Lanteri và cha Cafasso. Các cha Borel và Cafasso đều cảnh giác Don Bosco là bà có hướng muốn thống trị, tuy nhiên bà đã thực sự chiến đấu để thắng vượt tính xấu này. Ngoài lòng sùng kính thường xuyên của bà, bà làm việc đền tội, thăm nhà tù nữ, nuôi kẻ đau ốm, đỡ đầu nhiều trường và nhiều công cuộc bác ái, sáng lập hai dòng nữ và lập kế hoạch xây dựng một dòng các linh mục dưới sự bảo trợ của thánh Phanxicô Salê. Sứ vụ tôn giáo và giáo dục của bà tại nhà tù nữ đưa bà đến thiết lập các công cuộc duy trì trẻ nữ khỏi rơi vào nguy hiểm và giúp cải tạo các phụ nữ trẻ sa ngã, và thế là các công cuộc của bà phát sinh tại Valdocco (BM II, 182-185).

270 Don Bosco nói đến giới trẻ là nhìn nhận cái nhu cầu phải chăm sóc cho cả trẻ nam lẫn trẻ nữ nữa. Và quả thực ngài đã trực tiếp phục vụ cho giới trẻ nữ trong hai năm tại các công cuộc của nữ bá tước Barôlô (từ tháng 11/1844 đến tháng 7/1846). Nhưng Don Bosco kết luận là tiếng Chúa gọi ngài trực tiếp là để phục vụ cho các trẻ nam trong cái thời điểm văn hóa mà việc giáo dục nam nữ là hoàn toàn tách biệt.

271 Don Bosco nói đi nghỉ mà thực chất là đi giảng tuần phòng tại Canelli, và giảng tuần 9 ngày lễ Mân Côi tại Castelnuovô.

272 Đối thoại kiểu mèo vờn chuột gữa hai vị thánh. Để hướng dẫn thiêng liêng, người hướng dẫn cần biết đến các khuynh hướng, cảm nghĩ, tư tưởng của người mình hướng dẫn. Don Bosco xem ra không nhận ra điều này cách đầy đủ vào lúc này. Nhưng sau này khi viết dẫn nhập vào Hiến Luật Salêdiêng, Ngài sẽ nhận ra điều ấy rõ hơn.

273 Cha Borel dẫn Don Bosco đến giới thiệu với Nữ Bá Tước Barôlô. Bà lập tức bị ấn tượng bởi thái độ trầm lắng và đơn sơ của Don Bosco. Bà thấy ngay đó là dấu chỉ của sự thánh thiện (BM II,360). Bà hăm hở có chắc được việc phục vụ của ngài cho công cuộc của bà, vì thế bà bằng lòng ngay mức lương hằng năm là 600 lire cho ngài và còn cho ngài được phép tiếp tục sinh hoạt Nguyện Xá cho các trẻ nam của ngài. Về phía Don Bosco, ngài cũng “nhận ra sự khiêm nhường lớn lao dưới dáng vẻ uy nghi của bà, và cảm thấy vẻ e dè (reserve) và vẻ quí phái của bà được hòa nhập với sự đáng mến và tốt lành của một bà mẹ…” (BM II, 185).

274 Đó là căn phòng tạm cho dành cho Don Bosco, chờ cho khu dành cho các linh mục bên cạnh nhà thương hoàn tất. Trên thực tế, Don Bosco đã không bao giờ chuyển chỗ ở của ngài sang phía nhà thương, nhưng ngài có họp mặt các em Nguyện xá của ngài tại khu nhà thương như đã ghi nhận ở trên.

Nguyện xá trong năm 1842Một giấc mơ mới