Các kỳ nghỉ hè
Kỳ hè thường là một mối nguy hiểm lớn lao cho các chủng sinh, nhất là vào thời đó kỳ hè kéo dài bốn tháng rưỡi 175. Cha sử dụng thời giờ để đọc và viết; nhưng vì không biết sử dụng một cách ích lợi các ngày hè của cha, nên cha mất mát chúng rất nhiều mà chẳng có kết quả gì. Cha tìm cách giết thời gian bằng các việc thủ công. Cha luân phiên làm lúc thì các con thoi, lúc thì các con ngựa gỗ, các con cù, các quả bun hay các trái banh; cha may áo; cắt và may giầy; làm thợ sắt, thợ mộc. Hiện nay, tại nhà của cha ở Morialdo, vẫn còn một cái bàn viết, một bàn ăn với vài chiếc ghế nhắc nhở tới các tuyệt kỹ 176 trong các kỳ hè của cha. Cha cũng lo cắt cỏ ngoài đồng cỏ, gặt lúa mì tại cánh đồng; cha cắt tỉa các cây nho, thu hoạch các chùm nho, và làm rượu, và những chuyện giống thế. Cha cũng chăm sóc cho các bạn trẻ nhỏ bé của cha như thường lệ, nhưng chỉ làm được việc này trong các ngày lễ. Tuy nhiên cha có được mối an ủi lớn là dạy giáo lý cho rất nhiều bạn của cha; họ đang ở lứa tuổi 16 và cả 19, mà quả thực họ đói khát các chân lý đức tin. Cha cũng dạy một số tập đọc và tập viết với một kết quả tốt đẹp; bởi nỗi khát khao, sự nôn nóng muốn học hỏi đã lôi cuốn các bạn trẻ thuộc mọi lứa tuổi đến với cha. Lớp học hoàn toàn miễm phí, nhưng với điều kiện là họ phải bền tâm, chăm chú và xưng tội hằng tháng. Ngay từ lúc đầu có một vài người không muốn qui phục các điều kiện này, đã nghỉ. Chuyện đó trở thành tấm gương tốt và sự khích lệ cho những bạn khác.
Với phép và sự trợ giúp của cha xứ của cha, cha cũng bắt đầu thuyết giảng.
Cha thuyết giảng về phép Lần hạt rất thánh Mân côi 177 tại làng Alfiano, trong kỳ nghỉ hè năm triết học thứ hai 178; về thánh Tông đồ Bartôlômeô trong năm thần học thứ nhất tại Castelnuovo; về Sinh nhật Đức Maria, tại Capriglio. Cha cũng không biết kết quả của các bài giảng đó như thế nào. Cha được ca ngợi từ mọi phía, thế là cha được kéo đi bởi hư vinh, cho tới khi cha được vỡ lẽ như sau. Một hôm, sau bài giảng của cha về Sinh Nhật Đức Maria 179, cha đã hỏi một giáo dân, mà cha thấy là thông minh nhất vốn đã tâng bốc cha lên tận mây xanh, là ông nghĩ thế nào về bài giảng của cha, và ông ta đã trả lời cho cha rằng bài giảng của thầy về các linh hồn khốn khổ trong Luyện ngục ấy hay quá, một lời khen ngọi chẳng đúng chỗ gì cả, vì hôm đó cha chỉ giảng về các vinh quang của Đức Mẹ Maria.
Tại làng Alfiano 180, cha cũng muốn xin ý kiến của cha xứ, một nhân vật rất đạo đức và giàu giáo thuyết, tên là cha Giuse Pellato. Cha đã xin ngài nói cho cha hay ý kiến của ngài về bài giảng của cha.
Ngài trả lời cho cha:
– Bài giảng của thầy rất đẹp, có thứ tự, được trình bày bằng lời lẽ văn vẻ, với các tư tưởng Kinh Thánh, và nếu cứ tiếp tục như vậy, thầy sẽ có thể thành công trong việc giảng thuyết.
– Nhưng dân chúng họ có hiểu không cha?
– Ít lắm. Những người hiểu thầy chỉ có cha anh của tôi, và tôi cùng một số rất ít những người khác.
– Sao những chuyện dễ như thế mà người ta không hiểu?
– Đối với thầy xem ra là dễ, nhưng đối với dân chúng thì khá cao đấy. Những trưng dẫn lướt qua Lịch sử thánh 181, những sự bay bổng xuyên qua các lý luận trên cả một chuỗi các sự kiện của lịch sử Hội Thánh, tất cả những chuyện ấy dân chúng không hiểu được.
– Vậy cha khuyên con phải làm thế nào?
– Thầy hãy từ bỏ cái ngôn ngữ và hoa hòe của các lối văn chương cổ điển, hãy nói bằng tiếng bình dị của địa phương 182 khi có thể, hoặc bằng tiếng Ý cũng được, nhưng cách thật bình dân, thật bình dân, thật bình dân. Thế rồi thay vì lý luận. Hãy nêu ra các tấm gương, các ví dụ, các lời biện bác đơn sơ và thực tiễn. Nhưng thầy phải luôn nắm chắc là dân chúng hiểu ít, và các chân lý của đức tin không thể nào mà cắt nghĩa đầy đủ cho họ được.
Lời khuyên đầy tình cha con này đã giúp cha như một qui luật trong suốt cuộc đời cha. Cha gìn giữ các bài giảng đó 183 với biết bao là niềm hổ thẹn, và hiện nay cha chỉ thấy trong đó không có gì khác ngoài sự khoe khoang, và sự tìm kiếm hư vinh. Thiên Chúa nhân từ đã sắp đặt để cha có được những bài học này, các bài học quí giá về giảng thuyết, về việc dạy giáo lý, về các bài huấn dụ, và về viết lách, mà kể từ thời đó cha đã bắt đầu áp dụng 184.
Chú thích
175 Kỳ nghỉ hè kéo dài từ lễ thánh Gioan Tẩy Giả (24/6) đến lễ Các Thánh (1/11).
176 Lối nói này chỉ là một lời bông đùa. Những đồ vật này nay đặt tại nhà của ông Giuse Bosco, được xây dựng xuyên qua chiếc sân nhỏ, từ căn nhà cũ xưa khi họ còn sống như những anh em bé nhỏ.
177 Lễ này nhằm 7 tháng 10, nhưng thường được cử hành trọng thể vào Chúa nhật gần nhất sau đó, nên có lễ Gioan Bosco giảng lễ vào Chúa nhật.
178 Don Bosco viết nguyên văn là “nelle vacanze di fisica”, tức là năm triết hai, với các môn siêu hình học (metafisica) là chính. Còn chữ “di fisica” (vật lý học) thì không hiểu tại sao Don Bosco lại viết như vậy.
179 Lễ này nhằm ngày 8 tháng 9.
180 Cha Alfiano Natta, con người biết cố vấn và cầu nguyện, cha sở Alfiano cách Castelnuovo 20km từ năm 1823 cho tới khi qua đời. Ngài để lại di sản cho Giáo hội, để cung cấp tiền lương vững bền cho một cha phó xứ, một sự trợ giúp đáng kể cho những người nghèo và cho phượng tự thánh.
181 Ngài không khuyên đừng giảng theo Kinh Thánh, mà là tránh trích dẫn những nhân vật hay những sự kiện một cách tình cờ mà những người không có học không hiểu được. Các bài giảng thời ấy phần đa mang tính luân lý và tín lý.
182 Nguyên văn là “in volgare”, tức là thổ âm Piêmôntêse.
183 Văn khố Salêdiêng lưu giữ hai bài giảng của Don Bosco bằng thổ âm Piêmôntêse về Đức Mẹ lên trời và Sinh nhật Đức Mẹ, khá văn vẻ, câu dài, cấu trúc điêu luyện, cao quí, nhưng không có vẻ hùng biện. Khi viết về giảng thuyết, Don Bosco muốn khích lệ các con cái ngài về sự hữu hiệu, cụ thể, đơn sơ, bình dị, thân tình, dễ hiểu.
184 Trong nhóm 12 hay 14 chủng sinh họp nhau lại, do sáng kiến của người bạn đồng lớp Giacôbê Bosco, để bàn luận về văn chương trong các kỳ nghỉ hay giờ chơi, trong đó Gioan Bosco được coi như linh hồn của nhóm, “bậc thầy về văn pháp”, rất kỹ lưỡng trong việc sửa văn. Theo Don Caviglia: “Don Bosco viết đơn sơ, rõ ràng, ngăn nắp, chậm rãi” (Don Bosco profilo storico [Tôrinô: SEI,1920] pp. 97,99).